Trạng nguyên Nguyễn Thiến – bạn đồng liêu của Trạng Trình và công chiêu hàng của Nguyễn Bỉnh Khiêm.

Tượng Trạng Trình trong Khu di tích lịch sử Quốc gia Nguyễn Bỉnh Khiêm ở Vĩnh Bảo.

          Nguyễn Thiến là bạn học của Nguyễn Bỉnh Khiêm, cha của danh tướng Nguyễn Quyện (sau thành tướng trụ cột nhà Mạc) và tướng Nguyễn Miễn. Nguyễn Thiến rất quý trọng, tin phục và giao du thân tình với Nguyễn Bỉnh Khiêm. Ông được Trạng Trình đánh giá là người “thành tín, chính trực, hiểu biết nhiều”.
          Nguyễn Bỉnh Khiêm đã từng ở nhờ nhà Nguyễn Thiến và làm thầy dạy cho Nguyễn Quyện trước khi đỗ Trạng nguyên năm Ất Hợi (1535).
          Nguyễn Thiến được nhà Mạc trọng dụng. Ông cùng Thái tể Lê Bá Ly là thông gia. Sau khi vua sáng Mạc Đăng Doanh mất (1540), Thượng hoàng Mạc Đăng Dung cũng đau buồn mà chết (1541), vua Mạc Phúc Hải (con Mạc Đăng Doanh) cũng chết yểu (1546). Nhà Mạc biến loạn. Nội bộ lục đục. Năm 1550, Thái tể Lê Bá Ly mâu thuẫn với cha con sủng thần Phạm Quỳnh – Phạm Dao và bọn loạn thần Nguyễn Văn Thái, Đặng Văn Trị,… từ ngấm ngầm đến chia rẽ, đối địch. Thượng thư Nguyễn Thiến đứng về phía Thái tể Lê Bá Ly. Khiêm vương Mạc Kính Điển – phụ chính đại thần bận lo đối phó với phe phái Mạc Chính Trung (do Tứ dương hầu Phạm Tử Nghi phò tá) li khai và có ơn với nhà Phạm Quỳnh, nên không kịp xử lý.
          Vua Mạc Phúc Nguyên còn trẻ, lại tin lời xúc xiểm của loạn thần. Cha con Phạm Quỳnh, Phạm Dao đã bất ngờ đưa quân cấm vệ đến vây dinh Thái tể Lê Bá Ly và Thượng thư Nguyễn Thiến. Hai ông trốn thoát ra được đã đem binh Sơn Tây và Kinh Bắc về đánh lại quân của Phạm Quỳnh và Phạm Dao. Vua Mạc Phúc Nguyên trốn ra ngoài thành và xuôi thuyền bí mật về Dương Kinh để gặp Mạc Kính Điển. Trong tình thế cấp bách, Lê Bá Ly và Nguyễn Thiến đã không kịp hỏi kế Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm mà vội dẫn gia quyến đi suốt đêm trốn vào ải Thanh Hoa (Thanh Hóa) xin hàng nhà Lê (do họ Trịnh phò tá). Trong các con đi theo Nguyễn Thiến có Nguyễn Quyện và nhiều người đang làm tướng triều Mạc như Phổ quận công Lê Khắc Thận, Nguyễn Miễn… Mỗi người đem hơn trăm quân bản bộ.
          Nguyễn Thiến và Lê Bá Ly về theo nhà Lê vẫn được giữ nguyên tước hiệu cũ và đã làm tổn thất đặc biệt nghiêm trọng nguyên khí của nhà Mạc trong sự kiện này. Tháng 3 năm 1551, Trịnh Kiểm đem một vạn quân, cử Lê Ba Ly, Nguyễn Quyện, Lê Khắc Thận làm tiên phong, phối hợp chặt chẽ với Vũ Văn Mật tiến đánh Tuyên Quang, sau đó thọc về đánh chiếm kinh thành Thăng Long. Quân Mạc thua chạy. Trịnh Kiểm chiếm được kinh thành nhưng lường được binh lực nhà Mạc còn rất mạnh trong khi vùng đất căn bản của Nam triều (nhà Lê) đang để ngỏ nên đã kéo quân trở về Thanh Hoa.
          Nguyễn Bỉnh Khiêm vì nhà Mạc đã làm bài thơ gửi cho Nguyễn Thiến với ý thuyết phục ông trở về với nhà Mạc, trong đó có câu:
          Cố ngã tồn cô duy nghĩa tại
          Tri quân xử biến khá cam tâm.
          ……..
          Vận chuyển nhất chu ly phục hợp
          Tràng giang khởi hữu hạn đông nam

          Dịch:
          Ta giúp con côi vì nghĩa trọng
          Ông khi xử biến khá cam lòng
          ………
          Vận chuyển một vòng tan lại hợp
          Trường giang đâu có hạn đông nam.

          Nguyễn Thiến lúc ấy đang ở Thanh Hoa theo Nam triều, xem thư, trong lòng cảm thấy bứt rứt. Có lẽ ông cũng manh nha ý bảo các con mình theo về nhà Mạc nên sau này, khi được Trạng trình thuyết phục, Nguyễn Quyện, Nguyễn Miễn đã về hàng Mạc.
          Năm 1557, cả Lê Bá Ly và Nguyễn Thiến cùng mất ở Thanh Hóa. Các con ông là Nguyễn Quyện, Nguyễn Miễn đã cùng nhau trở về theo lại nhà Mạc và Nguyễn Quyện trở thành danh tướng dưới quyền Khiêm Vương Mạc Kính Điển – phụ chính đại thần giỏi của vua Mạc Phúc Nguyên. Việc Nguyễn Quyện trở về hàng Mạc đã góp phần tạo nên nhiều thắng lợi to lớn của Bắc triều trong cuộc chiến với phe Lê – Trịnh. Trong sự kiện tướng Nguyễn Quyện về hàng nhà Mạc có vai trò thuyết phục quan trọng của trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm.
          Năm 1557, Tuyên Tông Mạc Phúc Nguyên biết Nguyễn Quyện là tướng tài nhà Lê-Trịnh nên lấy làm lo ngại, hỏi kế của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Trạng Trình đã xin vua Mạc mang theo một trăm tráng sĩ sai đi phục sẵn ở bờ bắc sông và gửi thư mời anh em Nguyễn Quyện, Nguyễn Miễn sang bên thuyền để cùng uống rượu, nói chuyện tâm tình.
          Phải chăng, nhờ uy tín của Trạng Trình cộng với ơn thầy dạy là Nguyễn Bỉnh Khiêm, nên nên tháng 8 năm 1557, Nguyễn Quyện, Nguyễn Miễn nghe theo lời Nguyễn Bỉnh Khiêm bèn rủ nhau trốn khỏi nhà Lê về với nhà Mạc. Sự trở về của hai anh em Nguyễn Quyện làm Mạc Tuyên Tông và Khiêm Vương Mạc Kính Điển rất vui mừng. Mạc Kính Điển gả con gái Ngọc Tỷ cho Nguyễn Quyện và Ngọc Điểm cho Nguyễn Miễn; Mạc Tuyên Tông phong cho Nguyễn Quyện tước Văn Phái hầu, Nguyễn Miễn làm Phù Hưng hầu.
          Tháng 9 năm đó, Thái sư nhà Lê là Trịnh Kiểm mang quân đánh huyện Giao Thuỷ ở mạn dưới Sơn Nam. Trịnh Kiểm tự mình chỉ huy bộ binh, sai Vũ Lăng hầu Phạm Đức Kỳ làm Tiền Thuỷ đội, tung quân đánh lớn. Mạc Kính Điển không chút nghi ngờ Nguyễn Quyện, sai ngay ông ra chống giữ ở sông Giao Thuỷ. Nguyễn Quyện và Phạm Đức Kỳ đánh nhau to. Kỳ rướn mình nhảy sang mui thuyền của Nguyễn Quyện trước và hạ gục ngay người vệ sĩ của Quyện. Ông cầm gươm chém tới, Kỳ không đỡ kịp nên nhảy xuống sông lặn đi. Ông nhảy sang thuyền của Kỳ, chém được đầu người vệ sĩ và nhanh ý xóc mũi kiếm vào đầu địch thủ, dơ cao lên, hô lớn:
          “Đầu Vũ Lăng hầu đây, lũ chúng mày địch sao nổi ta”!
          Quân Lê Trịnh nghe nói thế, tưởng chủ tướng bị giết nên nao núng, tan vỡ. Quân Mạc thừa thắng đuổi đánh. Trịnh Kiểm phải vội rút quân. Mạc Kính Điển sai tướng đem quân chặn lối về. Theo Đại Việt Sử ký Toàn thư, trận này quân Lê tổn hại quá nửa, chiến tướng bị giết đến vài chục viên, thuyền bè, khí giới phải vứt bỏ rất nhiều, Trịnh Kiểm rút về Thanh Hoa. Nguyễn Quyện được phong là Thạch quận công.
          Chiến sự Lê-Mạc giằng co trong nhiều năm. Năm 1561, Mạc Phúc Nguyên lâm bệnh chết, con là Mạc Mậu Hợp mới hai tuổi lên thay. Phụ chính Mạc Kính Điển phong Nguyễn Quyện là Chưởng Phù Nam vệ.
          Năm 1570, Trịnh Kiểm chết, các con là Trịnh Cối và Trịnh Tùng tranh quyền đánh nhau. Mạc Kính Điển nhân thời cơ bèn khởi 10 vạn quân, 700 chiếc chiến thuyền chia làm năm đội vào đánh Nam triều. Mạc Đôn Nhượng cùng tướng Bắc đạo Mạc Đình Khoa trấn giữ cửa biển Thần Phù, tướng Nam đạo Nguyễn Quyện làm đội thứ 2, tướng Tây đạo Mạc Ngọc Liễn làm đội thứ 3, tướng Đông đạo Hoa Quận công và Kỳ Quận công [2] làm đội thứ 4; đích thân Mạc Kính Điển đốc suất đại quân trung dinh làm đội thứ 5. Trịnh Cối liệu thế không chống nổi bèn đem quân về hàng nhà Mạc. Quân nhà Mạc thừa thắng tràn lên vây a9ánh An Trường , thuộc huyện Thuỷ Nguyên, là nơi vua nhà Lê đóng. Tuy nhiên, Trịnh Tùng thay thế Trịnh Kiểm cũng là tướng có tài, quân Mạc không đánh chiếm được Thanh Hoá, chỉ cướp được nhiều của cải và dân mang về bắc. Một số tướng lĩnh nhà Lê cũng quay sang hàng Mạc.
          Tháng 7 năm 1571, Nguyễn Quyện theo Mạc Kính Điển đốc suất quân lính vào đánh các huyện ở Nghệ An. Theo Đại Việt Sử ký Toàn thư, dân Nghệ An sợ uy quân Mạc từ lâu, địa thế lại xa cách, quân Lê Trịnh không thể cứu giúp được, phần nhiều đầu hàng nhà Mạc. Vì thế, từ sông Cả (sông Lam) vào Nam đều là đất theo Mạc. Tướng Lê là Nguyễn Bá Quýnh nghe tin quân Mạc đến kinh hãi bỏ chạy. Nguyễn Quyện đánh tan đạo quân Lê của Hoàng quận công, bắt sống Hoàng quận công. Tuy nhiên, quân Mạc đi đánh xa, không được tiếp tế kịp thời. Tháng 9 năm đó, Trịnh Tùng chia quân cho hai quận công Trịnh Mô và Phan Công Tích đi cứu Nghệ An. Quân Mạc rút về.
          Tháng 8 năm 1572, Do chiến sự bên Mạc có nhiều thuận lợi, Thái phó Vi quận công Lê Khắc Thận – con của Lê Bá Ly trước từng theo cha sang hàng Lê với Nguyễn Quyện, đã bỏ lại vợ con, vượt lũy về hàng nhà Mạc.
          Tháng 6 năm 1574, Nguyễn Quyện lại đem quân đánh Nghệ An. Quân Lê đánh nhau với quân Mạc nhiều lần bất lợi, thấy quân lính nhiều người sợ bỏ trốn, bèn làm vòng sắt khoá chân quân lính vào thuyền. Quân Mạc đuổi đến, quân Lê cũng không chịu giao chiến. Nguyễn Quyện đánh bại quân Lê, đuổi theo bắt sống được tướng Hoành quận công mang về Thăng Long xử tử.
          Tháng 8 năm 1575, Mạc Kính Điển mang quân vào đánh Thanh Hóa, sai Nguyễn Quyện cầm quân đánh Nghệ An. Trịnh Tùng điều quân đánh chặn, cầm chân được quân của Kính Điển ở huyện Yên Định. Trịnh Tùng cử các tướng Lại Thế Khanh, Phan Công Tích, Trịnh Mô đi cứu Nghệ An. Nguyễn Quyện đã dùng kỳ binh mai phục, đánh thắng luôn và bắt được Phan Công Tích đem về.
          Năm 1576, Mạc Kính Điển một lần nữa mang quân vào đánh Thanh Hóa và lại sai Nguyễn Quyện cầm quân đánh Nghệ An. Nguyễn Quyện đụng với Tấn quận công Trịnh Mô, đánh nhau vài tháng. Sau Trịnh Mô nhiều lần đánh không được, trốn về Thanh Hoa, đến huyện Ngọc Sơn. Nguyễn Quyện nói: “Trịnh Mô đánh thua chạy về, rút quân không có hiệu lệnh, ta thế nào cũng bắt được nó”.
          Rồi ông tự đốc quân đuổi tới Ngọc Sơn, bắt được Trịnh Mô ở giữa đường đưa về Thăng Long.
          Đại Việt Sử ký Toàn thư của nhà Lê ghi nhận: “Từ đấy, oai thanh của Nguyễn Quyện ngày một lừng lẫy, trở thành viên danh tướng của họ Mạc. Các tướng hùng, tôi giỏi cả miền Giang Đông (vùng đất do nhà Mạc kiểm soát) đều cho là không bằng Nguyễn Quyện”.
          Tháng 8 năm 1577, Nguyễn Quyện theo Mạc Kính Điển đi đánh Thanh Hoá nhưng không giành được thắng lợi. Quân Mạc tổn thất phải rút về.
          Năm 1580, Mạc Kính Điển lâm bệnh không ra trận được. Tháng 7 năm đó, Kính Điển sai Nguyễn Quyện cùng Mạc Ngọc Liễn đem quân vào đánh Thanh Hoa, cướp lấy tiền của, súc vật của dân cư các huyện dọc sông rồi rút về. Tháng 10 năm 1580, Mạc Kính Điển mất. Mạc Đôn Nhượng được thay làm phụ chính.
          Năm 1581, Nguyễn Quyện theo Mạc Đôn Nhượng vào đánh Thanh Hoá nhưng Trịnh Tùng chốt giữ nhưng nơi hiểm yếu nên quân Mạc bại trận phải trở về.
          Năm Quý Mùi (1583) sau 10 năm giằng co (1573-1583), Trịnh Tùng thấy thế mình đã mạnh bèn cử binh mã ra đánh Sơn Nam, đổi thế thủ thành thế công. Lúc này Mạc Đôn Nhượng làm phụ chính đại thần không có tài như Mạc Kính Điển, vua Mạc Mậu Hợp hèn kém, ít quan tâm chính sự và không nghe lời trung thần. Nguyễn Quyện và Mạc Ngọc Liễn thì đều đã già yếu. Thế Nhà Mạc ngày một suy yếu.
          Năm 1584, Nguyễn Quyện được phong tước Thường quốc công. Tháng 6 năm 1586, ông được phong làm Nam quân Tả đô đốc, cùng Mạc Ngọc Liễn được phong làm Thái bảo.
          Tháng 11 năm 1587, quân Lê ra đánh phía tây nam, đến huyện Mỹ Lương. Nhà Mạc sai tướng Mạc Ngọc Liễn và Nguyễn Quyện ra chống giữ. Khi Nguyễn Quyện đến sông Do Lễ gặp quân Lê tới. Quân Mạc yếu thế, bị thua chạy về Thăng Long.
          Liên tiếp trong các năm sau, quân Lê ra đánh, quân Mạc thường bị thua, nhưng khi quân Mạc chạy về kinh, phía quân Lê cũng chưa đủ mạnh để truy kích ra bắc, nên rút về Thanh Hoá.
          Tháng 12 năm 1591, Trịnh Tùng huy động đại quân bắc tiến, chia làm 5 đạo để đánh ra Thăng Long. Nhà Mạc cũng dồn hết quân lính khoảng 10 vạn người ra mặt trận, hội ở Quốc Oai để quyết chiến. Mạc Mậu Hợp sai Mạc Ngọc Liễn đốc suất các tướng sĩ binh mã Tây đạo; Nguyễn Quyện đốc suất tướng sĩ binh mã Nam đạo, Mạc Mậu Hợp đích thân đốc suất binh mã của chính dinh.
          Ngày 27 tháng chạp, đến địa phận xã Phấn Thượng (nay là xã Ngọc Tảo, huyện Tùng Thiện, tỉnh Hà Tây), hai bên đối trận với nhau. Quân Lê Trịnh mạnh mẽ tiến lên đánh bại quân Mạc, thừa thắng đuổi dài đến Giang Cao, chém được hơn 1 vạn quân Mạc. Mạc Mậu Hợp vội xuống thuyền vượt sông mà chạy. Duy có Nguyễn Quyện lánh xa nên được an toàn, chưa đụng quân Lê.
          Mạc Mậu Hợp trốn về Thăng Long, chỉnh đốn lại binh mã. Sai Mạc Ngọc Liễn đem quân bản đạo cố thủ từ cửa Bảo Khánh về phía tây đến phường Nhật Chiêu; Bùi Văn Khuê, Trần Bách Niên đem quân bốn vệ giữ cửa Cầu Dừa, qua cửa Cầu Muống đến thẳng cửa Cầu Dền, chia dinh thứ, ngày đêm đóng cửa cố thủ trong thành Đại La để chống giữ; Nguyễn Quyện đem quân giữ từ Mạc Xá trở về đông, ứng cứu quân các đạo. Quân hai đạo Đông và Bắc đều thuộc quyền của Nguyễn Quyện.
          Mạc Mậu Hợp tự tay đốc suất thuỷ quân, dàn hơn 100 chiếc thuyền giữ sông Nhị Hà (sông  Hồng) để làm thanh viện. Nguyễn Quyện đem quân đến dinh, đặt quân phục ở ngoài cửa Cầu Dền để đợi, dàn súng lớn Bách Tử và các thứ hỏa khí để phòng bị.
          Đầu tháng giêng năm 1592, Trịnh Tùng đốc suất quân lính cùng tiến. Bùi Văn Khuê, Trần Bách Niên không chống nổi quân Lê, tan vỡ tháo chạy; Mạc Ngọc Liễn cũng bỏ trốn. Quân Lê thừa thắng đuổi tràn đến tận sông, phóng lửa đốt cung điện và nhà cửa trong thành. Trịnh Tùng thúc voi ngựa và quân lính đánh phá cửa Cầu Dền. Quân Mạc tan vỡ, quân mai phục của Nguyễn Quyện chưa kịp nổi dậy, bị chết hết ở ngoài cửa Cầu Dền. Nguyễn Quyện định liều mạng chạy trốn, nhưng tiến, lui đều không còn đường nào, trong ngoài đều là quân Lê, mà cửa luỹ lại bị lấp. Con ông là Nguyễn Bảo Trung, Nguyễn Nghĩa Trạch và thủ hạ, tinh binh cố sức đánh, đều chết tại trận.
          Nguyễn Quyện trí cùng lực kiệt, chạy về bản dinh, bị quân Lê bắt sống đem dâng trước cửa quân. Trịnh Tùng cởi trói cho ông, đãi theo lễ tân khách, tuyên dụ uý lạo, nói tới ân nghĩa thu nạp của Trịnh Kiểm trước kia.
          Nguyễn Quyện phục xuống và than rằng:
          “Tướng thua trận không thể nói mạnh được. Trời đã bỏ họ Mạc thì người anh hùng cũng khó ra sức”.
          Trịnh Tùng khen ngợi câu nói ấy của ông.
          Nguyễn Quyện tuy bị bắt nhưng vẫn nhớ nhà Mạc, bèn nghĩ ra kế hoãn binh cho nhà Mạc. Ông nói với Trịnh Tùng san phẳng lũy đất trong thành Thăng Long. Trịnh Tùng nghe theo, ngày 15 tháng giêng hạ lệnh cho quân san phẳng luỹ đất đắp thành Đại La dài đến mấy ngàn trượng, phát hết bụi rậm gai góc, cày lấp hào rãnh, phá đến thành đất bằng. Nguyễn Quyện muốn nhân thời gian quân Lê mải đi phá luỹ, quân Mạc sẽ có cơ hội tổ chức lại.
          Trịnh Tùng tuy thắng trận nhưng liệu sức chưa chiếm hẳn được Thăng Long nên cũng tạm rút quân. Song Mạc Mậu Hợp khi trở về kinh thành lại hưởng lạc như cũ, không lo lắng việc phòng chống quân Nam và tổ chức phản công.
          Nguyễn Quyện sinh được hai con gái. Con gái lớn là hoàng hậu Nguyễn Thị của Mạc Mậu Hợp, con gái thứ là Nguyễn Thị Niên là vợ của tướng Bùi Văn Khuê. Tháng 8 năm 1592, Nguyễn Thị Niên vào cung thăm chị, Mạc Mậu Hợp thấy sắc đẹp của Thị Niên nên muốn chiếm đoạt, bèn giữ luôn ở trong cung và dự định triệu Bùi Văn Khuê về kinh để giết. Nguyễn Thị Niên sợ hãi bèn sai người hầu cận mật chạy đi báo cho Bùi Văn Khuê. Văn Khuê biết chuyện, bèn dẫn quân bản bộ về hàng nhà Lê. Sau đó liên tiếp 10 tướng Mạc sang hàng Lê. Mạc Ngọc Liễn một mình chống giữ nhưng bị cô thế, bị bại trận ở Tam Đảo. Mạc Mậu Hợp đại bại bỏ chạy rồi bị bắt và bị giết.
          Mạc Ngọc Liễn chạy thoát, lập người tông thất là Mạc Kính Cung (con Kính Điển) lên ngôi, tiếp tục chống Lê Trịnh.
          Nguyễn Quyện bị giam trong ngục. Các con ông là Nhuệ quận công Nguyễn Tín, Thọ Nham hầu Nguyễn Trù và con của Phù Hưng hầu Nguyễn Miễn (em ông), là Đô Mỹ, Văn Bảng, Nam Dương, An Nghĩa, Nhân Trí thấy vua Mạc bị bắt, bèn chịu khuất, quy thuận. Tuy nhiên sau đó ông cùng các con, cháu vẫn muốn phò nhà Mạc nên mưu phản, việc bị phát giác.
          Ngày mồng 4 tháng 11 nhuận năm 1593, Nguyễn Quyện cùng Nguyễn Tín, Đô Mỹ, Văn Bảng, Nhân Trí đều bị giết trong ngục. Năm đó Nguyễn Quyện đã 82 tuổi.
          Con Nguyễn Quyện là Thọ Nham cùng 2 người cháu là Nam Dương, An Nghĩa trốn thoát đi theo Mạc Kính Cung lên Cao Bằng. Họ Mạc cát cứ trên Cao Bằng thêm hơn 80 năm nữa.
          Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm là người giỏi lý số, chắc chắn đã tiên đoán nhà Mạc không tồn tại lâu dài, nhưng vẫn hết lòng vì nhà Mạc mà hiến kế. Ông còn tác động bạn đồng liêu là trạng nguyên Nguyễn Thiến, chiêu hàng được Nguyễn Quyện (con Nguyễn Thiến) – học trò của mình, một tướng giỏi về hàng nhà Mạc, giúp triều Mạc kéo dài được một thời gian. Kể cả khi đã thất thế, mà danh tướng Nguyễn Quyện vẫn hết lòng với nhà Mạc đủ thấy Trạng Trình đã giỏi thuyết phục viên hổ tướng này trung thành với triều Mạc ra sao.
          Tại sao Nguyễn Bỉnh Khiêm lại trợ giúp triều Mạc như vậy?, không phải là ông từng được hai vua sáng đầu triều Mạc kính nể, trọng dụng ư?. Hay vì một lý do nào khác?. Tất cả chờ câu trả lời của các nhà nghiên cứu, nhà sử học.

Phạm Văn Thi, hội KHLS Hải Phòng biên soạn (nguồn Vi.wikipedia. org/ Nguyễn Quyện và website: Honguyenvietnam.vn)

Bài viết khác

Tác giả: Hải Phòng Học