Thánh tổ Non Đông – thiền sư Tuệ Nhẫn và chùa Muống.

Ảnh chùa Muống (Quang Khánh tự).

       Chùa Muống (tên chữ Quang Khánh tự) thuộc thôn Dưỡng Mông, xã Ngũ Phúc, huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương là di tích Lịch sử-văn hoá đã được Nhà nước xếp hạng ngày 21 tháng 1 năm 1992. Chùa vốn là ngôi cổ tự có từ thời Trần và hiện là trung tâm tôn giáo lớn của huyện Kim Thành-Hải Dương. Chùa Muống gắn liền với tên tuổi và sự nghiệp của nhà sư Tuệ Nhẫn – người góp công hoằng dương Phật giáo Trúc Lâm và là môn đệ trung thành của vị tổ thứ nhất của thiền phái Trúc Lâm Việt Nam- vua Trần Nhân Tông. Thiền sư Tuệ Nhẫn cũng được cho là đã xây dựng được 72 ngôi chùa ở xứ Đông (địa bàn Hải Dương, Hải Phòng và huyện Đông Triều-Quảng Ninh).
       Chùa được người dân gọi là chùa “Muống” để ghi dấu đặc điểm xa xưa của địa phương, một nơi có nhiều rau muống.
       Lịch sử cho biết, vào năm 1245 – thời Trần, vùng đất Dưỡng Mông ngày nay là nơi hoang vu lau sậy, đặc biệt là rau muống mọc khắp nơi. Gia phả các dòng họ ở đây cho biết: họ Vương đến vùng đất này sinh cơ lập nghiệp từ rất sớm, sau đó đến họ Nguyễn, họ Phùng. Thuỷ tổ họ Vương là cụ Vương Thiên Huệ khai khẩn đất này từ thời Trần, thuỷ tổ họ Đặng là cụ Đặng Đình Dư, thuỷ tổ họ Nguyễn là cụ Nguyễn Công Thể, thuỷ tổ của họ Phùng là cụ Phùng Xuân Thảo và thuỷ tổ của họ Phạm là cụ Phạm Đình Tuấn. Dưỡng Mông là một thôn có địa danh và dân số lớn nhất của xã Ngũ Phúc.
       Căn cứ vào dấu tích hiện còn là những di tích lịch sử- văn hoá thì vùng đất này vốn là vùng đất phù sa cổ, do dòng sông Văn úc bồi đắp từ hàng nghìn năm trước. Tương truyền, vào thời Lý Công Uẩn đã có nhiều dòng họ đến đây khai khẩn, đất đai lúc đầu chua phèn, chưa thuần thục. Rau muống là thức ăn chính, cây lương thực khó trồng, cây rau muống được mọi người chú trọng, cái tên Dưỡng Mông (tức “nuôi muống”) cũng được bắt nguồn từ đó. Thời gian trôi đi, số người đến đây lập nghiệp ngày một nhiều thêm, những cánh đồng hoang dần được đẩy lùi, ruộng đất chua phèn dần được cải tạo. Hiện nay, tại thôn Dưỡng Mông còn khá nhiều địa danh gắn với sự tích khai phá đất hoang như đồng Công đầu cầu, Đống Rúi, Đống Ông, Rộc Cò, Rộc Ma, Rộc Mét, Rộc Sâu, Rộc Ghếch, Rộc Súng, Đầm Đông, Đầm Am…
       Cùng với việc khai hoang lập ấp, bao thế hệ người làng Muống (tên gọi nôm của làng Dưỡng Mông) đã xây dựng nhiều công trình tôn giáo, tín ngưỡng mang đậm tính bản địa. Mặc dù trải bao biến cố của lịch sử, làng Muống vẫn còn một số di tích như miếu Mã Bến, miếu Thiên Lâu, đình thờ Thành hoàng làng và đặc biệt là chùa Quang Khánh. Trong hệ thống di tích còn tồn tại ở đây thì miếu Mã Bến, miếu Thiên Lâu và đình Dưỡng Mông là những di tích cùng thờ hai vị thành hoàng làng, từng có công đánh giặc dưới triều Lý và triều Trần.
       Sau khi thiền sư Tuệ Nhẫn viên tịch, để tri ân công đức của ông, nhân dân địa phương hằng năm tổ chức lễ hội chùa Muống vào ngày mất của nhà sư. Ngoài công lao phát triển dòng phật giáo Trúc Lâm, nhà sư còn có công chữa khỏi mắt cho vua Trần Anh Tông – vị con kế vị ngai vàng của vua Trần Nhân Tông. Sách Đại Nam nhất thống chí (Nxb. KHXH, Hà Nội; năm 1971. – tr. 411- 412) viết: “Chùa Quang Khánh ở xã Dưỡng Mông, huyện Kim Thành, sư ông Mộng trụ trì ở đây, tu luyện đắc đạo, phép thuật tinh thông. Vua Trần Minh Tông đau mắt, các thầy thuốc điều trị không khỏi, đêm mộng thấy một thầy thuốc tự xưng là ông Mộng, khi tỉnh dậy, không cần thuốc thang mà mắt tự khỏi, bèn lấy tên người trong mộng hỏi khắp châu huyện, khi đến chùa này mới thấy, nhà vua sắc phong là Từ Giác Quốc Sư, lại phát tiền kho tu bổ chùa quán, cho tên là chùa Quang Khánh, Lê Thánh Tông có đề thơ khắc vào đá nay vẫn còn”.
       Còn theo tấm bia đá “Quang Khánh tự bi minh tự”, do tiến sĩ khoa Đinh Mùi (1487) Phạm Cảnh Chiêu soạn, khắc dựng vào năm 1515, thì Tuệ Nhẫn Quốc Sư là người từng trụ trì chùa Dưỡng Mông thời Trần, sư họ Vương, hiệu là Quán Viên, quê ở xã Dưỡng Mông, thuở nhỏ bố mất sớm, mẹ ở vậy nuôi con. Từ năm 10 tuổi, sư khắc khổ chuyên cần học, 19 tuổi đọc rộng các sách, rồi chán cảnh trần tục, yết kiến Kiêm Tuệ đại sư chùa Báo Ân đi tu, Sau thụ trụ, túc giới hai sư Nghĩa Trụ và Chân Giám, giới hạnh, tài biện hơn người. Sư được vua Trần và triều đình rất kính trọng, vua Anh Tông ban cho pháp hiệu là Tuệ Nhẫn Quốc Sư. Năm Ất Sửu (1325) sư viên tịch. Như vậy, Tuệ Nhẫn với sư ông Mộng trong Đại Nam Nhất Thống chí chỉ là một. Tuệ Nhẫn là một nhà sư nổi tiếng nhà Trần, cùng thế hệ với Pháp Loa, Huyền Quang – Tổ sư đời thứ 2 và 3 của thiền phái Trúc Lâm do vua Trần Nhân Tông sáng lập .
       Chùa Muống được xây dựng vào thời gian nào và ai là người khởi công xây dựng đến nay vẫn chưa xác định được, nhưng đến thời Trần, chùa có quy mô lớn. Di tích này được trùng tu vào thời Lê và thời Nguyễn. Trải qua những biến động lịch sử, sự tàn phá của chiến tranh, chùa bị xuống cấp nghiêm trọng, chỉ còn hệ thống tháp thời Lê và thời Nguyễn khá đồ sộ. Ngày nay di tích đã và đang được khôi phục với quy mô lớn, từng bước trả lại dáng vẻ ban đầu của di tích.
       Chùa Quang Khánh có thể coi là một sơn môn quan trọng của Phật giáo Trúc Lâm, nơi nhà sư Tuệ Nhẫn xiển dương Phật pháp. Đồng thời, nhà sư còn có công truyền giáo lý và xây dựng 72 ngôi chùa lớn nhỏ trên địa bàn Bắc Bộ. Đối với nhân dân làng Muống, nhà sư không chỉ là người có công xây dựng chùa, mà ông còn là một trong những người đầu tiên khai khẩn đất đai, lập nên làng Muống ngày nay, vì vậy ông còn được thờ như một vị Thành hoàng bản địa.
       Theo tài liệu điền dã tại làng Muống cho biết, Tuệ Nhẫn Quốc Sư còn được nhân dân kính trọng gọi là Thánh tổ Non Đông (Thánh tổ Đông sơn). Ngài tên thật là Vương Thiên Huệ, là thuỷ tổ họ Vương, đồng thời là người có công khai khẩn vùng đất Dưỡng Mông thời Trần. Cha của Vương Thiên Huệ là cụ Vương Quý Lan và mẹ là người họ Hoàng. Lúc còn nhỏ, cha mất sớm, mẹ ở vậy nuôi con, nhưng vì nghèo, nên phải gửi cho người cậu ruột nuôi hộ. Tương truyền: Vương Thiên Huệ còn nhỏ không được đi học, cậu mợ giao cho chăn bò, bắt cáy, vì vậy ngày nay vẫn lưu truyền  câu ca:
       “Con cậu, cậu cho học nho,
       Cháu cậu, cậu bắt chăn bò, chăn trâu,
       Hai sương một nắng dãi dầu,
       ở ăn chẳng được, cháu hầu tha phương”.
       Trong hoàn cảnh vắng mẹ, lại ở với cậu mợ, không được đi học, lại bị cậu mợ mắng nhiếc, Vương Thiên Huệ dời nhà đi tìm mẹ, trên đường đi gặp một gia đình bán mía, liền xin nước uống và nghỉ chân. Sau khi dò hỏi chủ nhà biết cậu bé đi tìm mẹ mà không thấy, chủ nhà ngỏ lời đề nghị ở lại giúp việc. Hàng ngày chuyên lo dọn mía, rửa mía. Bỗng có một hôm ông thấy một cây mía có 72 gióng, thấy đó là điều lạ, ông đem dấu kín, buổi tối hôm đó ông xin nghỉ việc và không cần chủ nhà trả công, chỉ xin một cây mía. Chủ nhà vui vẻ cho ngay, và Vương Thiên Huệ lại lên đường về Kinh Bắc. Trên đường đi Kinh Bắc, ông vào chùa Nghĩa Trụ, yết kiến Hoàng Kiên đại sư (Kiên Tuệ đại sư) được thu nhận. Từ đó, ông trau dồi Phật pháp, đến năm 30 tuổi ông đã đắc đạo. Sau đó ông xin rời khỏi chùa để truyền bá Phật pháp mà Phật pháp của ông chính là giáo lý của thiền phái Trúc Lâm. Nơi ông đến đầu tiên là Mạo Khê (Quảng Ninh), nơi đây được gọi là Non Đông gần Yên Tử, là trung tâm của thiền phái Trúc Lâm do vua Trần Nhân Tông sáng lập. Ông quyết định trụ trì tại đó và ra công tu tạo 72 ngôi chùa lớn nhỏ. Riêng huyện Kim Thành, quê hương ông, ông xây dựng 4 ngôi chùa lớn: chùa Phí Gia (xã Đồng Gia), còn gọi là chùa Bùi; chùa Lành, chùa Gạo (xã Kim Tân); chùa Linh Quang (xã Kim Lương). Cho đến nay, trong dân gian vẫn lưu truyền một số câu ca phản ánh thời kỳ hưng thịnh của các ngôi chùa ở vùng này: “Lên chùa Muống, xuống chùa Bùi, lui chùa Gạo, dạo Hải Ninh (nơi có chùa Lành)”; hay “Nhịp chùa Lành, canh chùa Muống’ (nghĩa là nhịp chuông, mõ chùa Lành và đọc canh ở chùa Muống khó có nơi nào sánh kịp).
       Ngoài các ngôi chùa ở Mạo Khê ở quê hương, ông còn xây dựng nhiều ngôi chùa khác như chùa Vĩnh Nghiêm (Chí Linh), chùa Siêu Loại (Bắc Ninh), chùa Đông Khê huyện An Hải (Hải Phòng), chùa Do Nha huyện An Dương (Hải Phòng)… Trong số 72 ngôi chùa mà ông hưng công tu tạo, chùa Muống vẫn là nơi gắn bó phần lớn cả cuộc đời và sự nghiệp của ông. Câu hỏi đặt ra, không biết 72 ngôi chùa mà dân gian đồn rằng được Thiền sư xây dựng trong một ngày có liên quan gì đến tích cây mía 72 gióng của Ngài hay không hay chỉ là sự trùng hợp ngẫu nhiên?
       Vào thời Trần chùa đã được tu tạo nhiều lần, có lần vua sai Nguyễn Công Củng là quan trong triều về chỉ đạo thi công, hoàng hậu Nguyễn Thị Lương cấp tiền, bạc. Chùa có quy mô tới 120 gian lớn nhỏ, xây dựng theo kiểu “nội công ngoại quốc” trên khuôn viên rộng 15.000m2, bao gồm tam quan, tiền đường, thượng điện, nhà tổ, nhà tăng, hành lang, gác chuông, gác khánh…Chùa có 32 tháp sư và hàng trăm pho tượng lớn nhỏ.
       Trải qua thời gian, chùa Muống từng có khá nhiều nhà sư nổi tiếng trụ trì như sư Như Nhàn, quê ở Kim Lũy (Đông Triều) sinh vào năm 1655. Năm 24 tuổi ông đi tu tại Yên Tử, học đạo với Chân Hiền thiền sư, sau khi đắc pháp, chu du nhiều nơi, rồi trụ trì tại chùa Tư Phúc ở Côn Sơn, sau đó về chùa Quang Khánh (chùa Muống). Năm Tân Sửu (1721) Uy tổ Nhân Vương (Trịnh Cương) mời hòa thượng Như Nhàn về kinh, cầu đảo ở tháp Báo Thiên, được chúa ban thưởng Tử y Kim Lũ cà sa, phong chức Tăng phó. Năm 1724 sư viên tịch. Do loạn ly và đói kém, đến năm Cảnh Hưng thứ 28 (1767), dân chúng, phật tử mới xây được tháp, nay tháp vẫn còn ở chùa.
       Chùa Muống từng là một ngôi chùa đẹp nổi tiếng, có nhiều nhà thơ đã xúc cảm làm thơ ca ngợi, đáng chú ý nhất là 2 bài thơ của Lê Thánh Tông khắc trên bia hiện nay còn lưu giữ tại chùa. Bài thứ nhất khắc vào năm Quang Thuận thứ 6 (1465), đây là bài thơ chữ Hán thất ngôn bát cú ca ngợi cảnh đẹp của chùa. Bài thứ hai khắc vào năm Bính Ngọ (1486).
       Lễ hội chùa Muống được bắt nguồn từ việc kỷ niệm ngày mất của sư tổ Tuệ Nhẫn (tức Vương Thiên Huệ – sư ông Mộng) đã tồn tại nhiều thế kỷ và nay vẫn được duy trì (tuy có thời kỳ bị gián đoạn do chiến tranh). Khác với những ngôi chùa khác trong vùng, lễ hội ở đây không chỉ đơn thuần là lễ hội kỷ niệm ngày viên tịch của nhà sư Tuệ Nhẫn, mà lễ hội gắn kết giữa hai yếu tố “Thần và Phật”, vì đối với phật tử gần xa – ông là một vị sư tổ cao tăng rất đáng kính trọng, nhưng đối với quê hương, ông lại là một vị Thành hoàng làng có công khai khẩn đất đai, lập nên xóm ấp. Do đó lễ hội ở đây là một lễ hội đặc biệt, thời gian kéo dài 4 ngày từ ngày 24 đến ngày 27 tháng giêng hàng năm.

Phạm Văn Thi sưu tầm, biên tập.

Bài viết khác

Tác giả: Hải Phòng Học