Tượng Hoàng đế mạc Đăng Dung trong Khu tưởng niệm Vương triều Mạc ở Kiến Thụy.
Mạc Thái Tổ tên thật là Mạc Đăng Dung, là nhà chính trị, một tướng tài, hoàng đế sáng lập ra triều đại Nhà Mạc trong lịch sử Việt. Nhà Mạc tồn tại chính thức 65 năm (1527-1592) khi đóng đô ở Thăng Long – Đó là một khoảng thời gian không dài trong lịch sử dân tộc (nếu tính cả thời gian tồn tại ở Cao Bằng 85 năm nữa, cộng lại là 150 năm) nhưng những cống hiến của nhà Mạc vào lịch sử dân tộc không phải nhỏ… Tuy nhiên, vai trò của nhà Mạc trong lịch sử dân tộc mới chỉ được nhìn nhận trong thời gian gần đây.
Mạc Đăng Dung đóng vai trò quan trọng trong các sự kiện đánh dẹp các thế lực cát cứ chống đối triều đình, loại bỏ ảnh hưởng của những người ủng hộ Nhà Lê, thành lập Nhà Mạc và cứng rắn chống lại với những thế lực phò vua Lê ở Thanh Hóa như họ Trịnh. Đức vua Mạc Đăng Dung sinh giờ ngọ, ngày 23 tháng 11 năm Quý Mão (1483). Ông là người làng Cổ Trai, huyện Nghi Dương (nay là huyện Kiến Thụy, thành phố Hải Phòng). Mạc Thái Tổ mất ngày 22/8 âm lịch năm 1541, thọ 59 tuổi.
Về gốc gác tổ tiên của ông còn có một số tranh luận giữa các nhà nghiên cứu lịch sử. Tuy nhiên, theo cổ sử nước ta thì “Mạc Đăng Dung là cháu 7 đời của trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi thời Trần. Và Mạc Đĩnh Chi lại là cháu 5 đời của Mạc Hiển Tích – người đỗ đầu kỳ thi văn (đời Lý). Theo sách Toàn thư và Đại Việt thông sử, quê gốc Mạc Đăng Dung ở xã Cao Đôi (Đông Cao theo Cương mục), huyện Bình Hà (nay là thôn Long Động, xã Nam Tân, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương). Tổ tiên họ Mạc ông từ Mạc Đĩnh Chi trở về sau theo thế thứ là: Đĩnh Chi sinh ra Cao (theo Cương mục gọi là Dao), Cao sinh ra Thúy (Túy theo Cương mục), Thúy sinh ra Tung, dời sang ở xã Lan Khê, huyện Thanh Hà, Hải Dương rồi sinh ra Bình, Bình lại dời sang xã Cổ Trai, huyện Nghi Dương rồi trú tại đó. Bình sinh ra Hịch (là bố Mạc Đăng Dung), Mạc Hịch lấy con gái ông Đặng Xuân là Đặng Thị Hiếu, người cùng làng Cổ Trai sinh được ba con trai, con trưởng là Đăng Dung, con thứ là Đăng Đốc, con út là Đăng Quyết”
Mạc Đăng Dung hồi nhỏ làm nghề đánh cá, lớn lên có sức khoẻ, đỗ Đô lực sĩ xuất thân (còn gọi là trạng nguyên võ), được sung vào quân túc vệ của nhà Hậu Lê đời Lê Uy Mục.
Năm Đoan Khánh thứ 4 (1508), vua Lê Uy Mục giao cho ông làm Thiên vũ vệ đô chỉ huy sứ (ty Đô chỉ huy sứ). Năm Hồng Thuận thứ 3 (1511), vua Lê Tương Dực thăng ông làm Đô chỉ huy sứ, tước Vũ Xuyên bá.
Triều Lê suy yếu, các tướng lĩnh nổi loạn, chia bè phái đánh lẫn nhau, bên ngoài nông dân nổi dậy khởi nghĩa khắp nơi. Bấy giờ Mạc Đăng Dung đang trấn thủ Hải Dương. Vua Chiêu Tông bèn triệu Mạc Đăng Dung và Nguyễn Hoằng Dụ về cứu giá. Hoằng Dụ đánh bị thua chạy về Thanh Hóa rồi chết. Đăng Dung một mình cầm quân dẹp loạn và nắm hết quyền bính…
Năm 1521, Mạc Đăng Dung chiêu hàng được Nguyễn Kính, dẹp được Trần Cung (con Trần Cảo – là một lãnh tụ khởi nghĩa lớn). Từ đó quyền thế ông át cả Lê Chiêu Tông. Chiêu Tông sợ chạy ra ngoài gọi quân Cần vương. Đăng Dung bèn lập em Chiêu Tông là Xuân lên ngôi, tức vua Lê Cung Hoàng, tuyên bố phế truất Lê Chiêu Tông…
Năm 1523, Mạc Đăng Dung nhân phe ủng hộ Chiêu Tông yếu thế, điều quân đánh Thanh Hoá. Năm 1524, Trịnh Tuy phò tá nhà Lê thua trận bỏ chạy rồi chết. Đăng Dung được phong làm Bình chương quân quốc trọng sự thái phó Nhân quốc công…
Năm 1527, ông được phong làm An Hưng Vương. Các đối thủ đều bị dẹp yên, không còn ai ngăn trở, tháng 6 năm 1527, nhân khi vua Lê Cung Hoàng bạc nhược, Mạc Đăng Dung lên ngôi, lập ra nhà Mạc. Chiếu nhường ngôi của Lê Cung Hoàng cho Mạc Đăng Dung có đoạn viết: “Từ cuối đời Hồng Thuận gặp lúc Quốc gia nhiều nạn, Trịnh trung lập kẻ nghịch lên ngôi, lòng người lìa tan, trời cũng không giúp, lúc ấy thiên hạ đã không phải của nhà Lê vậy. Ta (Cung đế) bạc đức nối ngôi không thể gánh nổi, mệnh trời và lòng người hướng về người có đức. Vậy nay Thái Sư An Hưng Vương Mạc Đăng Dung là người trí đức, tư chất thông minh, đủ tài văn võ, bên ngoài đánh dẹp, bốn phương đều phục, bên trong trị nước thiên hạ yên vui, công đức rất lớn lao, trời người đều qui phục, nay theo lẽ phải nhường ngôi cho…”
Mạc Đăng Dung lên làm vua từ ngày 15 tháng 6 âm lịch năm 1527 đến hết năm 1529 (2 năm rưỡi) với niên hiệu Minh Đức. Sau đó, học theo nhà Trần, ông nhường ngôi cho con cả là Mạc Đăng Doanh (tức Mạc Thái Tông) để lui về Dương Kinh (Kiến Thụy nay) làm Thái thượng hoàng.
Năm 1540, Mạc Thái Tông mất, Mạc Đăng Dung lập cháu nội là Mạc Phúc Hải lên ngôi, tức là Mạc Hiến Tông. Nhà Mạc chính thức bị thế lực họ Trịnh phò nhà Lê tiêu diệt vào năm 1677 ở Cao Bằng.
Chính thất của Hoàng đế Mạc Đăng Dung là Hoàng hậu Vũ Thị Ngọc Toàn.
Các con của Ngài gồm có:
- Hoàng Thái tử MẠC ĐĂNG DOANH
- Hoàng tử MẠC CHÍNH TRUNG
- Hoàng tử MẠC PHỤC SƠN
- Hoàng tử MẠC NHÂN PHỦ
- Hoàng tử MẠC QUANG KHẢI
- Hoàng tử MẠC NHÂN QUẢNG
- Hoàng tử MẠC ĐẠI ĐỘ
- Công chúa NGỌC THỌ
- Công chúa NGỌC CHÂU
- Công chúa NGỌC QUANG
- Công chúa NGỌC TƯ.
Nhân đây cũng cần nói, các sử gia phong kiến thường phê phán nhà Mạc là ngụy triều vì cho rằng đã cướp ngôi nhà Lê sơ. Họ còn phê phán Mạc Đăng Dung đã dâng một phần đất biên giới cho nhà Minh để cầu hòa. Nhưng với quan điểm duy vật lịch sử hiện nay, các nhà nghiên cứu và sử học đều cho rằng nhà Mạc thay thế nhà Lê là sự phát triển tất yếu của lịch sử dân tộc khi một triều đại suy tàn thì sẽ bị thay thế bởi một triều đại khác tốt hơn (nhà Trần cũng thay thế nhà Lý, nhà Nguyễn thay thế nhà Lê Trung hưng..vv .. Còn về việc Thái tổ nhà Mạc dâng đất cho nhà Minh để cầu hòa có thực hay không thì có sử gia phong kiến sau này và cả các nhà nghiên cứu hiện nay như GS. Trần Quốc Vượng, Nguyễn Lâm Biền, TS. Phan Đăng Nhật…đều minh oan cho Mạc Đăng Dung vì thực ra những đất ấy vốn trước thuộc Trung Quốc bị nhà Lý chiếm lấy, sau phải trả lại cũng là điều tất nhiên. Để tránh cho đất nước khỏi họa xâm lăng của Minh triều, buộc Hoàng đế Mạc Đăng Dung phải nhẫn nhục cầu hòa trong hoàn cảnh ngặt nghèo thù trong giặc ngoài lúc bấy giờ.
Học giả, nhà sử học Lê Văn Hòe (1911-1968), bút danh Vân Hạc, được xem là người đi đầu trong hướng đánh giá mang nhiều tính lý trí, khách quan lịch sử về sự nghiệp của Mạc Đăng Dung. Nó càng đặc biệt bởi được viết ra từ suy nghĩ của một nhà nghiên cứu mang họ Lê, dòng họ đã mất ngôi vua về tay họ Mạc:
“Cái khuyết điểm lớn nhất của cuốn “Việt Nam sử lược” của Trần Trọng Kim (thời vua Bảo Đại) là ở chỗ đã nặng lời biếm nhục Mạc Đăng Dung – vua Thái Tổ Nhà Mạc… Sự thật khác hẳn. Mạc Đăng Dung bị hiểu lầm. Mạc Đăng Dung là một người anh hùng lập thân trong thời loạn. Mạc Đăng Dung là người yêu nước thương dân. Mạc Đăng Dung là người có tài ngoại giao.
…Thời bấy giờ là thời thiên hạ đại loạn. Vua chẳng ra vua, tôi chẳng ra tôi. Vua ngờ vực tất cả mọi người và chỉ định giết. Tôi thì giết vua, triều thần chẳng ai coi vua ra gì. Sinh vào thời đại loạn như vậy chỉ có hai đường: một là lui về nơi sơn lâm để tránh tai vạ, hai là xông ra dẹp loạn an dân giúp vua, giúp nước. Mạc Đăng Dung đã đi vào con đường thứ hai. Đăng Dung phù vua nhưng vua (Lê Cung Hoàng) định hại Đăng Dung. Cuối cùng Đăng Dung mới cướp ngôi vua vì thấy vua bất lực. Kể ra thì Mạc Đăng Dung cũng không tránh khỏi cái tội giết vua và cướp ngôi.
Nhưng trước kia thời Đinh, Lý, Trần không phải là không có người giết vua, cướp ngôi, ngay thời Mạc Đăng Dung cũng có bao nhiêu kẻ hoặc đã giết vua hoặc lăm le cướp lấy ngôi báu. Đứng vào địa vị Mạc Đăng Dung bấy giờ muốn tiến thân không ai làm khác được. Giả sử Mạc Đăng Dung lui về ẩn dật, bỏ mặc việc đời, thì Nhà Lê cũng không giữ nổi cơ nghiệp, ngai vàng hoặc đã về họ Trịnh, họ Trần (Trần Cao) hay họ Nguyễn, họ Hoàng. Mạc Đăng Dung chỉ là một người anh hùng lập thân ở thời loạn mà thôi. Trách Mạc Đăng Dung sao không cúc cung, tận tụy thờ vua Lê thì có khác gì trách Võ, Thang sao không tận trung thờ các vua Kiệt, Trụ.
Lẽ ra Mạc Đăng Dung phải làm công việc của Võ, Thang ngay từ thời Uy Mục và Tương Dực rồi mới phải. Nhưng có lẽ Mạc Đăng Dung còn muốn đợi xem lòng dân thế nào. Đến khi thấy rõ lòng dân Sơn Tây, Thanh Hóa đối với vua Lê, bấy giờ Đăng Dung mới quyết. Như vậy kể cũng đã thận trọng chứ không phải hành động mù quáng, lỗ mãng. Nếu ai cũng sợ tiếng nghịch thần thì từ thượng cổ đến giờ, trong lịch sử Trung Hoa, lịch sử Việt Nam cũng như lịch sử các dân tộc khác, có lẽ chỉ có một dòng họ làm vua chứ làm gì còn có các nhà Tần, Hán, Đường, Tống, Lê, Lý, Trần, Hồ”.(Trích “Hồ Quý Ly – Mạc Đăng Dung”, Nxb. Quốc học thư xã, Hà Nội-1959, tr. 25)
Nói tóm lại, triều Mạc tuy chính thức tồn tại không dài nhưng cũng đã để lại dấu ấn trong lịch sử dân tộc khi tạm thời ổn định được cục diện, đưa quốc gia Đại Việt phát triển trên nhiều lĩnh vực như kinh tế, an ninh – trật tự xã hội, văn hóa, giáo dục… Sách Đại việt sử ký toàn thư cũng ghi nhận như sau: “Ra lệnh cấm người các xứ trong, ngoài không được cầm giáo mác và dao nhọn, can qua, cùng những binh khí khác hoành hành trên đường đi. Ai vi phạm thì cho pháp ty bắt giữ. Từ đấy, người buôn bán và kẻ đi đường đều đi tay không, ban đêm không còn trộm cướp, trâu bò thả chăn không phải đem về, chỉ cần mỗi tháng xem lại một lần, có khi sinh đẻ cũng không biết được là gia súc nhà mình. Trong khoảng vài năm, người đi đường không nhặt của rơi, cổng ngoài không phải đóng, được mùa liên tiếp, trong cõi tạm yên”
Với vai trò là người khai sáng vương triều Mạc, Thái Tổ-Nhâm Minh Cao Hoàng đế Mạc Đăng Dung là người có công tạo lập nên một vương triều tiến bộ trong lịch sử dân tộc, có công với nước, có đức với dân, đáng được biết ơn, phụng thờ.
(PV. Thi biên tập theo Hợp biên Thế phả họ Mạc và Bách khoa Toàn thư mở Wikipedia)