Tượng Ngô Vương Quyền, Hoàng đế Lê Đại Hành và Trần Hưng Đạo tại Khu di tích LS Quốc gia Tràng Kênh.
Dòng sông Bach Đằng lịch sử chảy qua huyện Thủy Nguyên từng ghi dấu chiến công hào hùng của cha ông ta trong cuộc chiến đấu chống quân xâm lược phương Bắc vào các năm 938, 981 và 1288. Đóng góp vào thắng lợi của các cuộc kháng chiến chống quân Nam Hán, quân Tống và quân Nguyên Mông xâm lược có công lao không nhỏ của mảnh đất và con người Thủy nguyên.
Xin giới thiệu một số tấm gương dũng liệt làm vẻ vang cho vùng địa linh nhân kiệt này.
Trận thủy chiến Bạch Đằng lần thứ nhất (năm 938) và lần thứ hai (981):
Đền thờ vua Lê Đại Hành tại Khu di tích lịch sử Quốc gia Tràng Kênh.
Phạm Quang, Phạm Nghiêm, Phạm Huấn và Phạm Thị Cúc Nương:
Bốn anh em họ Phạm ở Thủy Đường (Thủy Nguyên nay) nêu trên đã giúp vua Lê Đại Hành trong trận Bạch Đằng năm 981. Phạm Quang và Phạm Nghiêm là hai anh em sinh đôi. Phạm Huấn và Phạm Thị Cúc Nương cũng là hai anh em sinh đôi. Khi Quang và Nghiêm 18 tuổi, Huấn và Cúc Nương 15 tuổi thì cả cha lẫn mẹ đều mất. Khi quân đội nhà vua đến thôn Thủy Đường, được dân làng đón tiếp và tiến cử bốn anh em họ Phạm là những người hiếu dễ, giỏi võ nghệ. Nhà vua cả mừng, gọi bốn anh em đến ban chức tước và sai cùng đi đánh giặc.
Sau chiến thắng, bốn anh em họ Phạm đều được Vua ban thưởng. Rồi họ xin vua cho về thăm phần mộ cha mẹ, tổ tiên và khao thưởng quân dân. Anh em họ Phạm mời các phụ lão dự tiệc, tặng ba trăm quan tiền để tỏ nghĩa ân tình.
Sau khi bốn anh em họ Phạm mất, dân làng đều lập miếu thờ.
Đào Tế, Đào Lại và Đào Độ:
Ở trang Trinh Hưởng, huyện Thủy Đường, phủ Kinh Môn, lộ Hải Dương (nay là thôn Trinh Hưởng, huyện Thủy Nguyên) có ba anh em họ Đào cùng sinh một ngày. Đó là Đào Tế, Đào Lại và Đào Độ. Thuở nhỏ, khi đi học, ba anh em đều chăm chỉ nên võ nghệ tinh thông, văn chương hiểu thấu, kinh sử am tường.
Khi anh em họ Đào 21 tuổi thì người cha qua đời. Lúc đoạn tang cũng là lúc quân Tống chuẩn bị lực lượng xâm lược nước ta.
Theo lời kêu gọi của nhà vua, ba anh em xin phép mẹ lên kinh ứng thí. Sau khi đạt kết quả, ba anh em đều được yết kiến vua và được nhà vua phong làm tướng, sai cầm quân đi dẹp giặc.
Giặc thua rút về nước. Nhà vua mở tiệc mừng công, khao quân, ban chức tước cho người có công. Sau đó, ba ông xin vua cho về quê quán làm lễ tổ tiên, mở tiệc mời bà con dân xóm cùng đến dự.
Khi ba ông mất, nhân dân địa phương lập đền thờ để tưởng nhớ công lao.
Phạm Quảng ở Thủy Đường: Phạm Quảng sinh ra trong một gia đình nghèo ở thôn Hoa Chương, huyện Thủy Đường (nay thuộc thôn Phương Mỹ, xã Mỹ Đồng, huyện Thủy Nguyên)
Thủa nhỏ, Phạm Quảng chăm chỉ học và thông minh. Người đương thời và bạn bè đều yêu mến, thán phục, gọi Quảng là thần đồng.
Phạm Quảng là người rất chịu thương, chịu khó làm việc giúp đỡ cha mẹ.
Khi trưởng thành, Phạm Quảng ra làm quan. Khi quân Tống sang xâm lăng, ông được Lê Hoàn sai đem quân chống giặc trên sông Bạch Đằng.
Sau khi phá tan quân xâm lược Tống trên sông Bạch Đằng năm 981, ông xin vua cho về thăm quê hương. Tại đây, ông khuyến khích dân làng tăng gia, cày cấy. Ít lâu sau, ông mất tại quê nhà. Nhân dân địa phương đã lập miếu thờ để tưởng nhớ công lao.
Cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông xâm lược lần thứ hai và thứ ba:
Tượng Quốc công Tiết chế Trần Hưng Đạo tại Khu di tích LS Quốc gia Tràng Kênh.
Trong hai cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông xâm lược – đạo quân hung hãn bậc nhất thế giới ở thế kỷ 13 của quân và dân Đại Việt, mảnh đất Thủy Đường (huyện Thủy Nguyên nay) đã có nhiều người con đóng góp công sức, tài trí và sự hy sinh cho thắng lợi của cuộc chiến đấu bảo vệ đất nước. Đặc biệt, sự đóng góp của mảnh đất và con người Thủy Nguyên trong trận thủy chiến Bạch Đằng năm 1288 là vô cùng đáng kể.
Dưới đây là một số tấm gương yêu nước, dũng liệt của người Thủy Nguyên.
Lại Văn Thanh: Quê ở Thủy Đường (nay là thôn Thủy Tú, xã Thủy Đường, Thủy Nguyên). Thuở nhỏ chăm học và học rất thông minh nên giỏi cả văn chương lẫn võ nghệ. Cha mất sớm, nhà nghèo, lớn lên Lại Văn Thanh phải đi biểu diễn võ nghệ để kiếm sống và nuôi mẹ già.
Năm 1287, giặc Nguyên vào xâm lược nước ta lần thứ ba, Lại Văn Thanh từ biệt mẹ già đi ứng tuyển và được nhà vua tin dùng. Tuy vậy, Lại Văn Thanh vẫn băn khoăn về nỗi mẹ già cô đơn không người chăm sóc. Nhưng rồi được mẹ già động viên và bà con dân làng giúp đỡ, Lại Văn Thanh lại hăng hái lên đường đi đánh giặc.
Trong trận Bạch Đằng năm 1288, Lại Văn Thanh đã chiến đấu dũng cảm, góp phần vào chiến thắng to lớn của dân tộc. Nhà vua phong cho ông làm “Đô úy Thượng phẩm đại liêu”.
Mai Đình Nghiễm: Theo nhân dân hai làng Phục Lễ và Phả Lễ huyện Thủy Nguyên kể lại cho con cháu nghe từ đời nọ qua đời kia thì Mai Đình Nghiễm là một trong những tướng đã chỉ huy nhân dân vào vùng ven sông Chanh lên rừng đẵn gỗ, đẽo cọc để chuẩn bị cho trận phục kích trên sông Bạch Đằng ngày 9-4-1288. Mai Đình Nghiễm còn được Trần Hưng Đạo giao nhiệm vụ đi dò xét tình hình quân giặc, chỉ huy một đội quân dũng cảm, giỏi bơi lội, thường lặn xuống sông đục thuyền giặc.
Mai Đình Nghiễm đã hy sinh trong khi làm nhiệm vụ. Nhân dân địa phương đã chôn cất ông trọng thể. Nhớ công lao của ông, nhân dân địa phương đã dựng miếu thờ.
Hai anh em Trần Hộ, Trần Độ: Trần Hộ – Trần Độ là hai anh em sinh đôi trong một gia đình có nền nếp ở Phả Lễ, huyện Thủy Đường (nay là huyện Thủy Nguyên). Được cha mẹ cho ăn học, cả hai anh em đều chịu khó học hành và luyện tập võ nghệ nên chẳng bao lâu hai người đều văn võ toàn tài và được làm quan ở đời nhà Trần.
Khi giặc Nguyên vào xâm lược nước ta lần thứ ba (1287 1288) anh em Trần Hộ và Trần Độ đã đi tuyển mộ quân lính giúp sức Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn. Cả hai đều tham dự vào trận phục kích tại sông Bạch Đằng và góp phần đánh tan quân giặc.
Đền thờ Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn tại linh từ Tràng Kênh.
Khi hai anh em mất, nhân dân Phả Lễ đã lập đền thờ, suy tôn làm phúc thần để tưởng nhớ công đức.
Vũ Nguyên: sinh ra và lớn lên ở thông Do Lễ (nay thuộc xã Tam Hưng, huyện Thủy Nguyên). Vũ Nguyên là một người có hiếu với cha mẹ và còn là một người chịu khó học hành và luyện tập võ nghệ. Chẳng may người cha mất sớm, nên vừa mới lớn lên, Vũ Nguyên đã phải đi cày thuê để lấy tiền nuôi mẹ.
Do có sự cần mẫn và có nghị lực lớn nên năm 21 tuổi, Vũ Nguyên đã trở thành một thanh niên văn võ kiêm toàn.
Một hôm đang lúc cày ruộng, Vũ Nguyên thấy mọi người đều chạy đi ẩn náu vì thấy Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn hành quân qua làng. Riêng Vũ Nguyên vẫn thẩn nhiên làm công việc của mình. Quân lính thấy vậy bèn trình Hưng Đạo Vương. Vương cho gọi Vũ Nguyên đến và hỏi vì cớ gì mà không tránh như mọi người. Vũ Nguyên thưa: “Việc hành quân là việc hệ trọng to lớn của triều đình, có khi tiếp diễn hàng tháng. Còn tôi nghỉ buổi nào là không có tiền nuôi mẹ già buổi ấy, chứ không có ý gì khác”. Vương khen là người con có hiếu và thưởng cho Vũ Nguyên 2 lạng bạc để nuôi mẹ già.
Sau đó mọi người cho biết Vũ Nguyên là người giỏi cả văn chương và võ nghệ nên khuyên Vũ Nguyên nên tòng quân đánh giặc, cứu nước. Được mẹ già khuyến khích, Vũ Nguyên nghe theo lời của Hưng Đạo Vương.
Trong trận đánh Bạch Đằng năm 1288, Vũ Nguyên đã chiến đấu anh dũng và lập nhiều công lớn góp phần lập nên chiến thắng lịch sử của quân-dân nhà Trần.
Sau chiến thắng Bạch Đằng năm 1288, Vũ Nguyên được cử về trấn thủ vùng cửa biển.
Sau khi ông mất, nhân dân Do Lễ đã lập đền thờ và tôn ông là thành hoàng của làng để tưởng nhớ công lao
Lý Hồng tổ chức cho dân làng Do Lễ (Tam Hưng – Thuỷ Nguyên) rèn giáo mác theo Trần Quốc Tuấn đánh giặc.
Vũ Đại ở Dưỡng Động (Minh Tân – Thuỷ Nguyên) dẫn một đạo dân binh mai phục ở bến sông Bạch Đằng sẵn sàng diệt địch.
Đó là những danh tướng có tên trong lịch sử. Ngoài ra, tham gia trận chiến Bạch Đằng còn có nhiểu người dân bình thường:
Trần Lai ở Bạch Đằng: Sách Toàn thư chép: “Ngày 26 (tháng 12 năm Giáp Thân 1284) vua (Trần Nhân Tông) ngự thuyền nhẹ ra Hải Đông, chiều tối rồi mà vẫn chưa ăn cơm sáng, có người lính là Trần Lai dâng cơm gạo xấu, vua khen là trung ban cho chức thượng phẩm, kiêm chức tiểu tư xã xã Hữu Triều Môn ở Bạch Đằng”. Cũng theo Đại Việt sử ký toàn thư thì làng Thủy Chú (Thuỷ Nguyên) là nơi đưa tiễn hai vua Trần vào Thanh Hoá chuẩn bị cho cuộc phản công chiến lược quét sạch quân Nguyên ra khỏi cõi bờ.
Ông Lủi, bà Lủi: là những người dân kiếm củi ở làng Tràng Kênh đã tự nguyện làm liên lạc, điều tra tình hình địch cung cấp cho quân đội nhà Trần. Đến cả bà hàng nước ở bến đò Rừng cũng đem hiểu biết của mình mách bảo về diễn biến con nước thuỷ triều ở vùng thượng lưu, giúp Hưng Đạo hoàn chỉnh kế hoạch tác chiến thế trận Bạch Đằng năm 1288. Bà Mai Thị Tuyết, người làng Sưa (An Lư) nhận thấy sông Hà Tê gây cản trở đối với việc hành binh của quân đội, bèn xuất tiền của, thóc gạo và vận động dân làng bắc một cây cầu qua sông. Bà Hoàng Thị Bính ở trang Hùng Khê (Câu Tử – Hợp Thành) đã động viên hai người con trai là Hoàng Hộ, Hoàng Thống tham gia và hy sinh trong trận Bạch Đằng năm 1288. Sau khi bà qua đời, nhân dân bản trang lập đền thờ và bà được vua Trần truy phong là Quận Đa phu nhân. Nhân dân ở nhiều làng xã ven sông Giá, sông Bạch Đằng còn tích cực ủng hộ lương thực, phương tiện, tổ chức kết bè, mảng chất củi khô, dầu trám…phục vụ trận đánh bằng hoả công chặn giặc ở Trúc Động và đốt cháy chiến thuyền giặc trên sông Bạch Đằng năm 1288.
Những chiến thắng trên dòng sông Bạch Đằng lịch sử là chiến công hào hùng trong lịch sử chống ngoại xâm vô cùng oanh liệt của ông cha ta, như Trần Hưng Đạo tổng kết, là chiến công của “cả nước góp sức”, nhưng đóng góp trực tiếp nhất và đa dạng nhất chính là sức đóng góp của các làng, xã trên mảnh đất Thủy Nguyên. Truyền thống anh dũng, quật cường chống ngoại xâm của mảnh đất và con người Hải Phòng cần phải được nêu cao và giáo dục cho các thế hệ hiện tại và mai sau.
P.V Thi, Hội KHLS Hải Phòng biên soạn theo sách Nhân vật Lịch sử Hải Phòng, tập 1. – Nxb. Hải Phòng, năm 2000.