
Tam quan chùa Thắng Phúc.
(Tham luận hội thảo “Những đóng góp của tăng ni, phật tử Hải Phòng trong 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ)
Huyện Tiên Lãng là một huyện anh hùng. Trong 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ huyện có 4.318 liệt sỹ. Với phương châm “Phật giáo đồng hành cùng dân tộc” và tinh thần “Hộ quốc – An dân” của Phật giáo, nhiều nhà sư đã tích cực tham gia sự nghiệp cách mạng của địa phương. Trong số đó đã có nhiều nhà sư hy sinh vì sự nghiệp “kháng chiến – kiến quốc”.
Theo số liệu của Giáo hội Phật giáo Việt Nam huyện Tiên Lãng thì vào thời điểm kháng chiến chống Pháp huyện Tiên Lãng có 107 ngôi chùa đều trở thành cơ sở cách mạng. Cả huyện có khoảng 80 nhà sư thì gần như quá nửa đã bị giặc Pháp bắt bớ, sát hại. Hiện tại đã có 7 nhà sư vinh dự được Nhà nước truy tặng danh hiệu liệt sĩ gồm Hoà thượng Thích Thanh Lãng, Hoà thượng Thích Nguyên Uyển, sư bác Thích Quảng Tại, Đại đức Thích Quảng Hợp, sư bác Thích Quảng Tuệ, hòa thượng Thích Thanh Dũng (năm 2019), Hòa thượng Thích Nguyên Trí – trụ trì chùa Tiên Đôi Nội thuộc xã Đoàn Lập.
Ba nhà sư còn lại đã hoàn thành hồ sơ cùng đợt năm 2012 với hòa thượng Thích Thanh Dũng, nhưng vẫn còn trong quá trình xét duyệt.
Tiên Lãng cũng là địa phương có nhiều chùa nhất trên địa bàn Hải Phòng với 106 ngôi chùa, đồng thời cũng là địa phương có số tăng ni, hòa thượng hy sinh trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp nhiều nhất thành phố Hải Phòng.
Riêng chùa Thắng Phúc tại xã Tiên Thắng đã có tới 5 vị sư trong số 10 tăng ni, hòa thượng của toàn huyện ngã xuống vì tổ quốc. Phần lớn các ngôi chùa ở Tiên Lãng trong thời kỳ hoạt động Việt Minh đều là nơi nuôi, giấu cán bộ cách mạng, là cơ sở liên lạc của lực lượng kháng chiến và tích cực ủng hộ sự nghiệp chống xâm lược của nhân dân ta.
Đại diện Hội Phật giáo Tiên Lãng và lãnh đạo thành phố trong một buổi lễ tại chùa Thắng Phúc.
Nằm ngay bên dòng sông Văn Úc, chùa Thắng Phúc (trước kia có tên là Vọng Phúc) nay thuộc thôn Lộc Trù, xã Tiên Thắng được xây dựng từ thời Lý, vào khoảng thời gian từ 1105-1125. Chùa xây theo lối kiến trúc “nội công ngoại quốc” hướng quay ra sông, lấy núi Thiên Văn (Kiến An) làm tiền án. Trải qua các đời Lý, Trần, Lê, Nguyễn với 62 đời sư tổ trụ trì, chùa luôn được trùng tu, tôn tạo. Đến nay, với sự trụ trì của Đại đức Thích Quảng Minh, chùa càng được xây dựng khang trang hơn.
Chùa Thắng Phúc nổi bật là một địa chỉ đỏ – Di tích lịch sử kháng chiến cấp Thành phố, nơi giáo dục truyền thống yêu nước cho nhân dân địa phương. Nơi đây đã có 5/8 nhà sư của huyện Tiên Lãng hy sinh trong kháng chiến chống thực dân Pháp, được Nhà nước truy tặng danh hiệu Liệt sĩ.
Trong kháng chiến chống Pháp, chùa vốn là nơi thờ Phật, tu hành với gần 20 hòa thượng, tăng ni, song trước cảnh thành phố và đất nước bị giặc xâm lăng, giày xéo, các tăng ni, phật tử của chùa đã hănng hái cùng nhân dân cả nước tham gia kháng chiến.
Theo sử sách còn lưu lại, chùa từng là ngôi cổ tự lớn nhất khu vực với 100 gian, lại nằm ở vị trí giao thông thuận lợi “trên bến dưới thuyền” nên nằm trong “tầm ngắm” của giặc Pháp với mưu đồ biến nơi đây thành căn cứ đồn trú và từ đó làm bàn đạp đánh chiếm khu vực các xã cuối huyện Tiên Lãng và các huyện ngoại thành Hải Phòng.
Thượng tọa Thích Quảng Minh, Trưởng Ban Văn hóa Giáo hội Phật giáo Việt Nam thành phố Hải Phòng, Trưởng ban Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam huyện Tiên Lãng cho biết: “Khởi nguồn cho việc các nhà sư ở Tiên Lãng đi theo Việt Minh phải kể đến sự kiện năm 1946, sư tổ Tự Tâm Cẩn, trụ trì ở chùa Thắng Phúc nghe theo lệnh tiêu thổ kháng chiến của Ủy ban Kháng chiến tỉnh Kiến An (cũ) và Liên khu 3, đã tiến hành cho tiêu huỷ chùa để không cho địch có nơi đồn trú”. Các tăng ni, phật tử đã bí mật vận chuyển rơm rạ quấn vào cột chùa và đốt cháy suốt hơn 10 ngày, toàn bộ chùa bị tiêu hủy. Một số đồ thờ tự bằng đồng, chuông đồng (trong đó có quả Đại hồng chung nặng 150 kg) đã được hiến cho kháng chiến, góp phần giải quyết khó khăn về nguyên liệu giúp bộ đội quân giới sản xuất vũ khí đánh giặc.
Sau khi chùa cháy, sư tổ đã động viên tăng ni, phật tử hưởng ứng lời kêu gọi “Toàn quốc kháng chiến” của Chủ tịch Hồ Chí Minh và căn dặn các đệ tử: “Nước còn thì đạo còn, nay nước lâm nguy thì đạo cũng lâm nguy, phải giữ lấy nước thì mới giữ được đạo”. Nghe theo lời di huấn của sư tổ, các tăng ni, phật tử trẻ tuổi hăng hái tham gia vào đội du kích tại địa phương; còn các vị sư tuổi cao thì bám trụ tại các chùa trong vùng và lập thành “Hội Tăng già cứu quốc” để nuôi giấu cán bộ, tham gia kháng chiến”. Cần phải nói rõ, “Hội Tăng già cứu quốc” – thành viên của Mặt trận Việt Minh huyện Tiên Lãng phát nguồn từ chùa Thắng Phúc, vậy nên, ngày đó khi nói đến các nhà sư ở Tiên Lãng, người ta thường nhắc đến các vị sư Việt Minh và cũng kể từ ấy mỗi khi giặc càn vào làng thì nhà sư và các ngôi chùa đã trở thành một trong những mục tiêu trọng điểm mà giặc lùng sục, khủng bố.
Và cũng tại tổ đình này, 5 nhà sư đã anh dũng hy sinh vì đất nước, được Nhà nước truy tặng là liệt sĩ kháng chiến chống Pháp, gồm: Hoà thượng Thích Thanh Lãng, Hoà thượng Thích Nguyên Uyển, sư bác Thích Quảng Tại, Đại đức Thích Quảng Hợp, sư bác Thích Quảng Tuệ.
Có thể nói, mỗi vị sư hy sinh trong hoàn cảnh khác nhau nhưng đều chịu sự tra tấn dã man của kẻ thù và đều không chịu khuất phục.
Điển hình là Hòa thượng Thích Nguyên Uyển – vị sư từng trụ trì chùa Bảo Khánh ở thôn Nam Tử, xã Kiến Thiết năm 1942 khi mới 15 tuổi. Hòa thượng Thích Nguyên Uyển quê ở thôn Lộc Trù, xã Tiên Thắng, đệ tử thứ hai của nhà sư Tự Tâm Cẩn. Chùa Bảo Khánh trở thành cơ sở hoạt động của chi bộ Đảng xã Kiến Thiết năm 1946, đồng thời cũng là trung tâm chỉ đạo đấu tranh chống giặc càn của cán bộ huyện Tiên Lãng và tỉnh Kiến An (cũ). Hòa thượng Thích Nguyên Uyển lúc này là Chủ tịch “Hội tăng già cứu quốc” huyện, đã tổ chức đào hầm bí mật nuôi giấu cán bộ và trực tiếp tham gia lãnh đạo phong trào Việt Minh.
Sáng 17-10-1951, quân Pháp mở đợt càn quét lớn vào chùa Bảo Khánh và vùng lân cận, Hòa thượng Thích Nguyên Uyển sa vào tay giặc, chúng dã man xỉa thẳng lê vào cổ để hy vọng ông khai và nhận mặt 5 chiến sỹ cách mạng bị chúng bắt trước đó nhưng Hòa thượng quyết không khai, giữ tuyệt đối an toàn cho cơ sở cách mạng. Trước khí tiết của ông, đến 10 giờ sáng cùng ngày, quân Pháp đã hèn hạ xả đạn điên cuồng sát hại Hòa thượng. Sau khi giặc rút quân, dân làng đã chôn cất ông tại chùa. Với những đóng góp to lớn cho cách mạng, năm 2004, Hòa thượng Thích Nguyên Uyển được Đảng, Nhà nước công nhận là liệt sỹ và truy tặng Huy chương Kháng chiến hạng nhì.
Sau sự hy sinh lẫm liệt của Hòa thượng Thích Nguyên Uyển là gương hy sinh anh hùng của Hòa thượng Thích Thanh Lãng.
Hòa thượng Thích Thanh Lãng, sinh năm 1900, quê ở thôn Sơn Đông, thuộc xã Tiên Thắng, huyện Tiên Lãng – trụ trì chùa Bạch Đa thôn Dương Áo, xã Hùng Thắng. Ông là đệ tử thứ nhất của sư tổ Tự Tâm Cẩn – trụ trì chùa Thắng Phúc. Kháng chiến toàn quốc bùng nổ, ông tham gia “Hội tăng già cứu quốc”, tích cực hưởng ứng và tổ chức các hoạt động trong Mặt trận Việt Minh huyện. Cũng như Hòa thượng Thích Nguyên Uyển, ông đã vận động người dân mua công trái quốc gia, ủng hộ kim loại để đúc súng đạn, gây quỹ ủng hộ kháng chiến và trực tiếp hỗ trợ nuôi dưỡng bộ đội, du kích trong vùng. Hòa thượng Thích Thanh Lãng còn mở lớp bình dân học vụ, vừa dạy quốc ngữ vừa tuyên truyền giác ngộ cách mạng.
Trưa 20-9-1952, quân Pháp càn vào chùa, Hòa thượng Thích Thanh Lãng bị bắt khi đang cất giấu tài liệu dưới gầm các pho tượng. Dù giặc dùng mọi thủ đoạn, từ mua chuộc đến tra tấn dã man
Do có địa hình thuận lợi án ngữ con đường từ của sông Văn Úc vào làng Dương Áo, chùa Bạch Đa trở thành điểm tập kết, cơ sở hậu cần của lực lượng du kích và bộ đội địa phương. Dưới sự lãnh đạo của Hòa thượng Thích Thanh Lãng, bà con Phật tử đồng lòng, nhất tâm vì sự nghiệp kháng chiến, tích cực tăng gia sản xuất, đóng góp cho cách mạng.
Ngày 20/9/1952 Hòa thượng Thích Thanh Lãng bị giặc Pháp bắt tại chùa Bạch Đa. Ông bị giặc tra tấn độc ác bằng cách đưa lên cối xay lúa, cứa dao vào cổ tra khảo hòng khai thác cơ sở kháng chiến bí mật của cách mạng. Nhưng với chí khí cách mạng kiên trung, ông không chịu khuất phục trước những cực hình của kẻ thù. Bất lực sau gần một ngày tra khảo, chúng treo cổ ông lên cây đa gần chùa Dương Áo. Ngày 20/9/1952 Hòa thượng Thích Thanh Lãng đã anh dũng hy sinh. Chứng kiến cái chết lẫm liệt của Hòa thượng, nhân dân đã an táng và sau này đưa di hài ông về chùa yên vị. Năm 2005 Hòa thượng Thích Thanh Lãng được Nhà nước truy tặng danh hiệu Liệt sĩ vì những đóng góp, hy sinh cho cách mạng.
Chiến tranh đã lùi xa, nhưng sự hy sinh của những vị sư huyện Tiên Lãng nói chung và chùa Thắng Phúc nói riêng vẫn là tấm gương sáng về tinh thần xả thân vì nước cho các thế hệ sau. Họ là biểu tượng của tinh thần kiên cường, bất khuất, trung dũng, quyết thắng của nhân dân Tiên Lãng anh hùng và thành phố Hải Phòng Trung Dũng – Quyết thắng.
Phạm Văn Thi, hội viên Hội KHLS Hải Phòng.