
Nhân việc phát lộ 2 tấm bia đá vừa tìm được ở cống Cá thôn Thanh Trì, xã Kiến Thiết huyện Tiên Lãng chỉ chỗ an táng di cốt các vua Mạc và Trạng Trình, chúng ta có thể quay lại tham khảo một bài thơ – sấm ký của Trạng Trình được phát hiện trên 2 lư hương mà Trạng cung tiến từ đường nội-ngoại tộc của ông (được phát hiện năm 2005 ở Tiên Lãng – Hải Phòng).
Sinh thời, Trạng Trình đã cho làm một lư hương bằng gốm mầu gan gà pha mận chín đặt vào bàn thờ ngoại tổ họ NHỮ ở làng An Tử Hạ, Tiên Lãng, Hải Phòng. Lư hương đã bị vỡ thời 1950, một mảnh vỡ có chữ được bảo quản tới năm 1960 cũng đã mất, nhưng bài Lô Hương Kí thì may thay được ghi chép trong gia phả họ Nhữ như sau :
Trí hiếu dĩ phụng tiên
Vị viên nguyên phúc viên
Lại tam tam thế hựu
Lịch số sổ bách niên
Thế bát phùng khuyết biệt
Chu ngũ phục nguyên tuyền
Hữu xương hồ nhân thập
Hữu xí hồ song thiên
Long xà an sở ngộ
Đỉnh xuất tử tôn hiền
Nội ngoại phả nhị chi
Thuỷ chung như nhất phiên
Thời lộ huyền vi chỉ
Xuất bất hoại kỳ yên
Cung lô hương vu tổ
Kiến long vị tại thiên
ÂÂ DỊCH TẠM (1)
ÂÂ Chí hiếu thờ tổ tiên
Phúc chưa tròn sẽ đầy
Ba ba đời nữa (2)
Trải qua mấy trăm năm
Đời thứ tám khuyết biệt
Khoảng 500 năm lại nguyên tuyền
Thịnh vượng thập phương đến
Trọng vọng kính song thân
Thìn Tỵ gặp bình an
Con cháu hiền thảo như chim đĩnh
Nội ngoại hai bên
Thuỷ chung như một
Cơ trời huyền vi chưa thể lộ
Một vài câu không thể dừng
Lư hương dâng tiên tổ
Thấy rồng hiện trên trời.
ÂÂ Nguồn gốc bài Lư Hương Kí:
Bà mẹ Trạng Trình là Nhữ thị Thục, hiệu Lan Hoa, con gái tiến sĩ Nhữ Văn Lan, Thượng thư Bộ Hộ đời Lê Thánh Tông (1460-1497), bà tinh thông kinh sử lí số, đoán trước nhà Lê sẽ suy vong 40 năm sau Lê Thánh Tông. Sau bà lấy ông Văn Định, sinh ra Nguyễn Văn Đạt tức Nguyễn Bỉnh Khiêm. Vì không hài lòng với chồng trong việc dậy dỗ con (bà muốn dậy con thành vua), nên bà bỏ về làng cha mẹ An Tử Hạ sống, làng này chỉ cách Trung Am bên kia sông Hàn. Có thể vì người con trai của cụ Nhữ [2a], anh bà Nhữ thị Thục, di lên Bình Giang, Hải Dương (theo lời khuyên của thầy địa lí Tầu), nên bà Thục về trông nom gia trang họ Nhữ chăng ? Chỉ biết khi bà mất, nhà Mạc phong là Từ Thục phu nhân, thì Trạng Trình cho người con thứ 7 là Nguyễn Ngọc Liễn (con út) sang An Tử Hạ trông coi mồ mả từ đường cố ngoại Nhữ văn Lan và bà ngoại Nhữ thị Thục. Trạng Trình dâng lư hương và viết bài kí dâng nhà thờ họ ngoại này.
Bài Lư Hương Kí, một dấu ấn về khoa lí số Trạng Trình:
Ông ngoại đỗ tiến sĩ đời Lê 1463, làm quan to Thượng Thư Bộ Hộ triều Lê, cha ông là Văn Định cũng được phong Thái bảo Nghiêm quận công, còn chính Trạng Trình lại ra thi và làm quan cho nhà Mạc, là triều đại đoạt ngôi triều Lê. Cho nên với tài lí số Trạng Trình đã từng nói, theo truyền thuyết: sinh Nguyễn tử Giang..nghĩa là sinh thời mang họ Nguyễn, sau khi chết sẽ là họ Giang, là vì con cháu sẽ phải cải tên đổi họ để tránh sự trả thù của phe Lê/Trịnh thắng thế năm 1592 (Trạng Trình mất 7 năm trước, 1585). Quả vậy, người con trưởng của Trạng Trình là Hàn Lâm tên Hầu đã đổi thành họ Giang, Hàn Giang cư sĩ , vào vùng Trường yên Hoa Lư (Ninh Bình) ẩn dật. Tới nay, dòng họ Giang của Trạng Trình đã lập nghiệp được 17 đời (khoảng 25 năm 1 đời), con cháu lên tới 3000 người. Trong 7 người con của Trạng Trình, chỉ có con cả là theo nghiệp văn, 6 người khác đều theo võ nghiệp, phò Mạc…Nhưng điều đáng chú ý khi đọc những dòng Lư Hương Kí là :
1- Tuy là vật dâng cúng bàn thờ, nhưng Trạng đã lưu lại những lời tiên tri cho dòng họ cả trăm năm sau, đời thứ 8 khuyết biệt (200 năm), 500 năm nữa lại trở lại như trước, đúng khả năng tiên tri, ngũ bách niên tiền, ngũ bách niên hậu, hay gần với câu Sấm : Tổ truyền nhị thập ngũ, Cơ đồ ngũ bách niên về một vị thánh xuất Bạch Sỉ, phục hưng Lạc Việt. Nếu lấy khoảng đầu thế kỷ 16, là năm nhà Mạc lên (Chấn cung nhật xuất) 1527 thì khoảng 500 năm, hay chu kỳ 60 năm x 8 = 480 năm, thì dòng họ nội ngoại sẽ phục nguyên tuyền, 1527+480= 2007, khoảng đầu thế kỷ 21 vậy.
2- Bốn câu cuối bài gói kín một tiên đoán về tương lai xa của nước nhà, khi Cung lư hương lên bàn thờ tiên tổ, thì Trạng thấy Rồng bay trên trời (kiến long vị tại thiên), nghĩa là điềm thái bình, thánh nhân xuất lộ. Vận nhà, vận nước đi đôi với nhau, khoảng năm trăm năm sau, nhà phục nguyên vào lúc nước phục nguyên…
Chú thích:
1- Không có bản chữ Nho nên chúng tôi tạm dịch theo bản Hán Việt, so với bản tạm dịch trong sách của xã Lí học, huyện Vĩnh Bảo, Hải phòng năm 2005, thì cũng có vài chữ không đồng nhất, như khuyết biệt trong bản Hán Việt lại thành khuyết biệt trong bản dịch. Ở dây chúng tôi để nguyên từ khuyết biệt.
2- Tam tam nếu hiểu là 33 thì rất dài 33 x 25 =825 năm, có lẽ hiểu là 3 lần 3 là 9 thì hợp với câu thế bát (tám đời) hơn, hoặc câu Ngã bát thế chi hậu cũng là 8 đời.
2a – Con trai Cụ Nhữ Văn Lan là Nhữ Huyền Minh làm tri huyện Lục Ngạn, di cư về thôn xã Lôi Dương, huyện Đường An, trấn Hải Dương (nay là thôn Sồi, xã Thái Học, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương). Con cháu hậu duệ hiện đang sinh sống nhiều tại các thôn: Sồi, Hoạch Trạch (Vạc), Như, Quàn… huyện Bình Giang.
2b – Nhiều tài liệu cho rằng câu đối, đối đáp trên là của tiến sĩ Nguyễn Tuấn (đỗ tiến sĩ năm 1613), quê Thanh Trì, Hà Nội.
(Chú thích 2a, 2b là của www.honhuvietnam.org)
(Nguồn: LÔ HƯƠNG KÝ Thơ hay Sấm viết trên gốm lư hương ?/Lưu Văn Vinh//website: Honhuvietnam.com. – ngày 17/7/2012).
PV. Thi sưu tầm.ÂÂ