
Tượng vua Mạc Phúc Nguyên ở chùa Hưng Khánh (Đằng Lâm) quận Hải An.
Tất cả các bộ chính sử nước ta cũng như kết quả nghiên cứu thực địa đều khẳng định, năm 1592, sau khi đánh bại nhà Mạc, nhà Lê – Trịnh đã triệt hạ ấp thang mộc Cổ Trai của nhà Mạc cùng những di tích liên quan đến thành phố Hải Phòng ngày nay, kể cả trại, lăng – nơi chôn cất của hoàng tộc triều Mạc; cây cối bị chặt phá, bia mộ bị đạp đổ. Dương Kinh bị đốt cháy hàng tháng trời.
Mặc dù bị tàn phá khốc liệt nhưng không thể nào xóa bỏ hết dấu tích một vương triều tồn tại chính thức 65 năm và đã có một thời thịnh đạt, nhất là dưới thời trị vì của hai vị anh quân Mạc Thái Tổ Đăng Dung, Mạc Thái Tông Đăng Doanh.
Những di tích về nông nghiệp:
– Đầm bãi nhà Mạc: ở chỗ giáp ranh huyện Thủy Nguyên, Hải Phòng và thị xã Quảng Yên, tỉnh Quảng Ninh do Ninh Vương Mạc Phúc Tư khoanh vùng trồng cây ngập mặn, vừa bảo vệ đất đai, vừa làm nơi dấu quân.
Ninh Vương Mạc Phúc Tư còn dựng vườn Thiên Long Uyển ở làng Yên Khánh, tả ngạn sông Giá thuộc thị xã Đông Triều, đối ngạn làng Quỳ Khê huyện Thủy Nguyên. Vườn hoa Thiên Long nay vẫn còn.
Hiện nay đầm bãi nhà Mạc vẫn là vùng đầm khai thác thủy sản, không có người dân sinh sống. Nơi đây là vùng chưa phân định được địa giới hành chính giữa tỉnh Quảng Ninh và thành phố Hải Phòng. Về phía tỉnh Quảng Ninh muốn kêu gọi đầu tư khu công nghiệp và cảng biển tại đây nhưng do sự khiếu nại của Hải Phòng và chỉ thị của Chính phủ đầu năm 2018 tạm dừng triển khai các dự án tại khu vực có tranh chấp mà tỉnh Quảng Ninh cũng chưa làm gì.
– Đê cổ Chân Kim: Sử chép “tháng 8 năm Bính Tuất (1526) truyền lệnh cho các phủ Thượng Hồng, Hạ Hồng, Kinh Môn, Nam Sách, Thái Bình đắp đê Chân Kim ở Hải Dương”. Đê này bắt nguồn từ chùa Đại Minh thôn Phú Xá – xã Đoàn Xá- huyện Kiến Thụy qua các xã Tân Phong, Minh Tân, Tú Sơn đến chợ Quý Kim, phường Hợp Đức, quận Dương Kinh ngày nay.
Địa danh Chân Kim đến đời Thành Thái nhà Nguyễn vì kiêng tên húy vua Dục Đức là Ưng Chân mới đổi là Quý Kim. Đê cổ này vừa dài, vừa lớn, mặt đê khá rộng, trong thời gian chiến tranh phá hoại của không quân Mỹ, có chỗ bộ đội đặt được tên lửa pháo và trạm ra đa. Năm 2010, ở đoạn đê cổ thuộc thôn Nãi Sơn, xã Tú Sơn đã phát hiện một cột mốc đá cổ. Đê cổ Chân Kim được sách Đại Nam nhất thống chí triều Tự Đức xếp vào danh mục cổ tích tỉnh Hải Dương. Dân trong vùng này gọi đê nhà Mạc vì nó án ngữ, che chắn cho ấp thang mộc Cổ Trai.
– Đường Thiên Lôi: Tương truyền do Tứ Dương hầu Phạm Tử Nghi tổ chức đắp dọc sông Lạch Tray từ làng An Dương đến làng Vĩnh Niệm nay thuộc quận Lê Chân, rồi tiếp từ làng Rào (An Khê), làng Hầu (Hào Khê) nay thuộc quận Ngô Quyền đến Phương Lưu, Lương Xâm, Xâm Bồ, Đồng Xá… nay thuộc quận Hải An, có những khúc đê ngăn mặn, dân đều gọi là đê nhà Mạc.
– Dải yếm bà chúa: Tên thường gọi dải ruộng từ làng Tiên Cầm, xã An Thái, huyện An Lão đến tận làng Kỳ Sơn, xã Tân Trào, huyện Kiến Thụy (thượng Tự Tiên Cầm hạ chí Ký Sơn). Đây là ruộng bà Hoàng hậu Vũ Thị Ngọc Toàn khai khẩn bãi bồi sông Mai Giang cấp cho dân sở tại cày cấy. Khi đắp đê ngăn mặn đã tạo nên hai đầm nước ngọt lớn; đầm Cửa Phủ (ở núi Đối) và đầm Lá (xã Kỳ Sơn), tạo cho mấy xã này có nước cấy vụ chiêm. Phương dao huyện Nghi Dương có câu:
“Chiêm Nại Sơn, Đoạn Xá, mùa Đầm Lá Kỳ Sơn”
(Làng Nại (thôn Nãi Sơn) nay thuộc xã Tú Sơn, Đoạn Xá nay thuộc xã Đoàn Xá có diện tích vụ lúa mùa rất rộng, rất tốt).
– Kênh nhà Mạc: Từ sông Văn Úc qua khu căn cứ núi Voi huyện An Lã, thông với sông Đa Độ, đổ ra cửa sông Cổ Trai – Đa Ngư vừa lấy nước tưới vừa làm đường giao thông thủy, đến chỗ đập Tắc Giang, thị trấn Đối, nhà Mạc lại đào thẳng bãi bồi làng Thù Du xã Minh Tân để thông dòng nước, thành ra làng. Thù Du hiện có khu ruộng lớn sát làng Cẩm La, làng Cổ Trai. Đập Tắc Giang mới đắp đầu thế kỷ XX. Thơ ca địa phương có câu “… Gập ghềnh đỉnh thấp đỉnh cao, Bàn cờ hang đá, Kênh triều Mạc xưa…”
– Bát Trang: gồm 8 trang trại do nhà Mạc khai khẩn ở bãi bồi sông Lạch Tray thuộc địa phận huyện An Lão. “Trang” cũng giống như “sở đồn điền” đời Lê, nhà Mạc giao binh lính bảo vệ căn cứ núi Voi trồng lúa, rau mầu cung cấp cho quan quân đóng vùng phụ cận. Bát Trang nay hợp thành một xã lớn, trù phú của huyện An Lão.
– Kênh Cái Giếc: ở vùng thượng huyện Vĩnh Bảo, đào từ thời Mạc để tưới tiêu và vận tải. Nay vẫn còn.
Ngành, nghề thủ công:
Địa bàn Hải Phòng thời Mạc vốn là vùng có ngành nghề thủ công nổi tiếng như dệt vải lụa, đóng tàu thuyền, đan lưới đánh bắt cá sông, biển, làm đồ gốm, khắc đá, tạc tượng, làm nhà cửa, đình chùa… nhưng qua thời gian chiến tranh, biến đổi xã hội, những di tích nghề thủ công thời Mạc hiện không còn lại bao nhiêu hay chỉ có thể tìm thấy trong văn bia, thư tịch cổ:
– Nghề gốm: nghề nổi tiếng thời Mạc với các làng nghề Chu Đậu, Cậy (Hải Dương), Bát Tràng huyện Gia Lâm, Hà Nội. Ở huyện Vĩnh Bảo thời Mạc cũng có lò gốm, sản phẩm tìm được chỉ là đồ gia dụng nồi, niêu, ấm, chậu, vại nhỏ, hoa văn trang trí thô sơ. Ở đền Tiên Đôi xã Đoàn Lập, huyện Tiên Lãng chúng tôi thấy có một bình hương ghi tên Tiến sĩ khoa Bính Tuất, Đoan Thái (1586) Nguyễn Khắc Cần người làng này cung tiến.
Đỉnh hương và chân đèn gốm sứ thời Mạc.
– Nghề khắc đá tượng: Trang trí hoa văn bia, khánh đá, bàn thờ, lư hương… còn khá nhiều. Thợ đá nổi tiếng là vùng Gia Đước nay thuộc xã Gia Đức, huyện Thủy Nguyên đã lưu tên trên nhiều sản phẩm mĩ thuật đá. Ngoài ra cũng có vài sản phẩm thời này ghi tên thợ làng Tây Am nay thuộc xã Cao Minh, huyện Vĩnh Bảo.
– Nghề sản xuất ngư cụ như đóng thuyền đánh cá trong lộng, ngoài khơi nổi tiếng ở 8 vạn chài Đồ Sơn, làng Quần Mục-xã Đại Hợp-Kiến Thụy, làng Bàng Động, Tiểu Bàng (nay thuộc quận Đồ Sơn) đều rất nổi tiếng. Những làng này xưa đều thuộc huyện Nghi Dương, đế hương triều Mạc. Các làng Cổ Trai, Đa Ngư đều thạo nghề cá, có phường lưới (thâm vống). Tổng Đại Trà huyện Nghi Dương, quê công thần khai quốc triều Mạc – Nguyễn Như Quế (được ban họ vua, làm đến chức Phụ Chính đại thần đời vua Mạc Mậu Hợp) có nghề ra vùng biển Cát Bà bắt đồi mồi, vẩy làm đồ mỹ nghệ, vùng này cũng có nghề rèn nổi tiếng.
Như vậy trung tâm Dương Kinh tuy không có những phường, phố chuyên sản xuất tàn lọng, hia hài… phục vụ đồ ngự dụng của triều đình, nhưng lại có những nghề sản xuất binh khí, tàu thuyền phục vụ chiến đấu và phục vụ tâm linh tín ngưỡng của nhân dân và cả quý tộc.
Những di tích về nghề buôn:
Các sử giả phong kiến và đương đại đều thống nhất thời Mạc nghề trồng trọt, chăn nuôi, thủ công mỹ nghệ đều khá phát triển, triều đình không nặng tư tưởng trọng nông, ức thương nên nghề buôn (cả nội thương, ngoại thương) đều phát triển. Với bình lực mạnh, xã hội ổn định nên triều đình cho mở cảng giao thương ở ven biển hoặc vào sâu nội địa. Ở địa bàn Hải Phòng cũng thấy những chợ vùng lớn như chợ Đầm (Tiên Lãng) chợ Hàn mà bia quán Trung Tân Nguyễn Bỉnh Khiêm nhắc đến, chợ Bát Xà gọi tắt là chợ Xã, chợ Hương huyện Kiến Thụy, chợ Tổng huyện Thủy Nguyên, chợ Ruồn, chợ Thái, (huyện An Lão), chợ Rế huyện An Dương… Những phố cho người Hoa đến ở, buôn bán như phố Khách Long Mã bên sông Bạch Đằng, phố khách ở xã Quang Phục (Tiên Lãng), phố Khách ở Cát Bà, phố Nhộn ở sông Họng (Đồ Sơn). Còn các cửa biển Hạ Hôm (thôn Cộng Hiền, Vĩnh Bảo), cửa biển xã Đồng Minh huyện Tiên Lãng, bến Đổng Sông (có tài liệu viết là Đông Lũng) huyện An Lão… là nơi khách buôn nước ngoài, nhất là Hoa thương và cả Công ty Đông Ấn (Hà Lan) đã đến đây mua tơ sống, hàng mỹ nghệ, rau tươi và xin nước ngọt.
Những chợ lớn, bến cảng, phố buôn kể trên phản ánh thực trạng thương nghiệp thời Mạc hiện còn tương đối nhiều, đa dạng.
Những di tích lịch sử văn hóa:
Văn từ:
– Đền thờ tiên hiền huyện Tiên Minh đặt ở xã Ninh Duy (nay thuộc xã Khởi Nghĩa, huyện Tiên Lãng) dựng năm Sùng Khang thứ 9 (1576) được bộ Hộ chuẩn y thỉnh cầu của thôn, sĩ huyện. Nền văn từ còn một phần bia đá tìm lại được.
– Văn từ thờ Nhữ Văn Lan đỗ Đồng tiến sĩ khoa Lê Quang Thuật 4 (1463) làm quan đến chức Hộ bộ Thượng thư, chết được phong phúc thần bản xã An Tử Hạ (nay thuộc xã Kiến Thiết huyện Tiên Lãng). Nhà thờ họ Nhữ còn lưu tấm bia tiền hiền do học trò dựng thờ thầy.
Đền miếu:
– Những đền miếu thờ công thần thời Mạc ở Hải Phòng hầu hết bị triều đình Lê-Trịnh phá hủy như đền thờ Trình quốc công Vũ Hộ ở xã Cung Hiệp (nay là thôn Thù Du, xã Minh Tân), đền thờ Thái sư Hải quốc công Phạm Gia Mô ở Lê Xá, xã Kì Sơn đều thuộc huyện Kiến Thụy, đền thờ Trạng nguyên Trần Tất Văn ở Nguyệt Áng, xã Thái Sơn, huyện An Lão… con cháu dòng họ đều phải bỏ làng, đổi họ, tránh sự trả thù của nhà Lê-Trịnh. Qua kiểm kê của Bảo tàng Hải Phòng chỉ còn đình An Bồ xã Dũng Tiến thờ vợ chồng kỳ quận công Phạm Đức Kỳ và vợ, ông bà mua hậu chùa nên còn tượng. Sau Phạm Đức Kỳ theo nhà Lê trung hưng.
– Từ đường Tam tiến sĩ ở xã Thạch Lưu (nay thuộc xã An Thái, huyện An Lão) thờ Nguyễn Kim, đỗ đồng tiến sĩ khoa Lê Cảnh Thống 5 (1502) và hai con: Nguyễn Chuyên Mỹ đỗ đồng Tiến sĩ, Nguyễn Đốc Tín đỗ Hoàng Giáp cùng khoa thi Lê Hồng Thuận 6 (1514). Hai anh em đều làm quan với nhà Mạc đến chức Thượng thư. Nguyễn Chuyên Mỹ mở trường dạy học, nhiều người thành đạt.
– Đình thôn Tràng, xã Đông Quất (nay thuộc xã Tam Đa, huyện Vĩnh Bảo) thờ Nguyễn Sư Khanh, người làng này, đỗ đồng tiến sĩ khoa Mạc Hồng Ninh thứ 2 (1592), làm quan cho nhà Mạc, sau theo nhà Lê, đi sứ sang nhà Minh, trên đường về bị đắm thuyền chết.
Chùa:
Sau kháng chiến chống Minh, chùa chiền được tu tạo nhưng không nhiều. Triều Hậu Lê, đặc biệt vua Lê Thánh Tông độc tôn nho giáo, tăng lữ, đạo sĩ bị khinh rẻ. Đến triều Mạc, với tư tưởng cởi mở, các tôn giáo được tự do nên đạo Phật, đạo giáo đều phát triển, mặc dù nhà Mạc vốn sùng nho, cũng do thuộc dòng dõi các danh sĩ Mạc Hiền Tích, Mạc Đĩnh Chi. Chùa chiền được tu tạo, tượng pháp, chuông khánh được tô – đúc mà bi ký thời Mạc hiện còn lưu được khá nhiều.
Căn cứ kết quả kiểm kê di tích và hồ sơ xếp hạng di tích hiện lưu tại Bảo tàng Hải Phòng kết hợp với thư tịch cũ, ở Hải Phòng dưới thời Mạc có 3 chùa được dựng mới là:
* Chùa Minh Phúc xã Cẩm Khê nay thuộc xã Toàn Thắng, huyện Tiên Lãng dựng năm Sùng Khang 7 (1574) do Thái hoàng thái hậu Vũ Thị Ngọc Toàn là hội chủ hưng xây. Ngoài chùa bà con làm cầu, làm quán và mở chợ, mua ruộng tự điền. Chùa đồ trong kháng chiến, chỉ giữ được vài pho tượng, bia và đang được trùng tu.
* Chùa Cối Sơn ở thôn Cối, xã Thiên Lộc nay thuộc xã Đại Hợp, huyện Kiến Thụy, dựng năm Quang Bảo 9 (1563). Chùa đổ nát trong chiến tranh, hiện đã làm lại.
* Chùa Song Mai dân còn gọi là chùa Ngàn Mai do phu nhân thứ 3 của Trạng Trình, người Đồ Sơn, vì không có con nên xin Trạng dựng chùa ở làng Trung Am để tu Phật. Trong chùa có nhà hậu thờ bà.
Trùng tạo, sửa chữa lớn 11 chùa gồm:
– Chùa Bà Đanh làng Trà Phương (nay thuộc xã Thụy Hương, huyện Kiến Thụy) chữa năm đầu Thuần Phúc (1565). Chùa ở phía đường ngang Tú Đôi, Du Lễ.
– Chùa Dương Tân xã Tân Dương, huyện Thủy Nguyên sửa năm đầu Diên Thành (1578). Chùa hiện còn dấu vết cũ, hiện đã được tu bổ.
– Chùa Kiến Linh xã Phục Lễ huyện Thủy Nguyên sửa năm Thuần Phúc 2 (1566) được ghi ở bia Trùng tu Kiến Linh tự bi. Đây là một ngôi chùa lớn quy mô to tát, hội chùa có hát đúm, hội mở mặt.
– Chùa Thọ Linh xã Đoan Lễ, huyện Thủy Nguyên, sửa năm Thuần Phúc 3 (1567), được ghi ở bia Trùng tu Thọ Linh tự bi ký.
– Chùa Linh Khánh xã Bàng Động (vốn là xã Đại Bàng đời Trần), nay thuộc phường Bàng La, quận Đồ Sơn. Việc sửa chữa chùa được phản ánh ở bia: Vĩnh Khánh tự bi, tạo năm DIễn Thành 6 (1583), Diễn Thành 7 (1584).
– Chùa Trúc Am xã Du Lễ huyện Kiến Thụy. Việc chữa chùa được ghi trong bia Trúc Am tự bi, tạo năm Đoan Thái 4 (1588).
– Chùa Bảo Khánh xã Yên Tử Hạ nay thuộc xã Kiến Thiết, huyện Tiên Lãng. Đợt sửa này ghi ở bia Tu tạo Bảo Khánh tự bi, tạo năm Hưng Trị 2 (1589).
– Chùa Hoa Tân xã Bách Phương (nay thuộc xã An Luận, huyện An Lão), sửa năm Diên Thành 5 (1582), được ghi ở bia Hoa Tân tự bi.
– Chùa Linh Sơn nay thuộc xã Thái Sơn, huyện An Lão, sửa năm Diên Thành 6 (1583), ghi ở bia Trùng tu Linh Sơn tự bi.
– Chùa Hà Lân xã Đông Minh (nay thuộc xã Tiên Thắng, huyện Tiên Lãng), việc tu tạo ghi ở bia Hà Lân tự bi ký, tạo năm Hưng Trị 2 (1589)
Hầu hết các chùa xây mới, trùng tu đều do hoàng tộc đứng ra làm hội chủ hưng công và đóng góp công của rất lớn, chưa kể một số chùa họ cho cúng ruộng, cúng tiền, chắc các chùa này hồi ấy còn tốt. Ngoài giá trị kiến trúc, các chùa Mạc còn có nhiều pho tượng Phật, tượng người như các tượng Vương ở chùa Nhân Trai (Kiến Thụy), chùa Trung Hành (Đằng Lâm-quận Hải An), chùa Trà Hương, tượng Thái hoàng Thái hậu Vũ Thị Ngọc Toàn ở chùa Hòa Liễu huyện Kiến Thụy.
Đặc biệt, các chùa hầu hết được làm mới, tu tạo đều thuộc các triều vua Mạc Phúc Nguyên, Mạc Mậu Hợp, riêng triều vua Mạc Đăng Dung, Mặc Đăng Doanh rất ít.
Lê Thế Loan, nguyên cán bộ Bảo tàng HP sưu tầm, chỉnh sửa,
Nguồn:“Đầm bãi nhà Mạc và các di tích thời nhà Mạc có liên quan tới thành phố Hải Phòng”/ Mạc Thị Thu Hà – Đoan Nhân// website của Liên hiệp các Hội Khoa học và kỹ thuật Việt Nam).