Trà Việt

       Trà là một đồ uống khá phổ biến trong đời sống của người Việt Nam cũng như nhiều quốc gia khác trên thế giới. Mặc dù chưa có một thứ trà đạo có giáo lý (lý thuyết thưởng trà) như Trado (trà đạo) của Nhật Bản hay trà đạo Trung Quốc nhưng không có nghĩa ở Việt Nam, trà không có vị trí quan trọng.
       Trung Hoa là nước đầu tiên trên thế giới phát hiện ra trà và sử dụng trà như một đồ uống. Trà không chỉ là thức uống thanh nhiệt mà còn chữa được bệnh. Đối với người Trung Quốc, thưởng trà đã trở thành nét văn hóa ngàn năm lịch sử. Việc thưởng trà cũng là một nghệ thuật. Để có thể có được một ấm trà ngon, không đơn giản chỉ là nguyên liệu tốt mà còn cần sự tinh tế trong nghệ thuật pha trà, sự kết hợp hài hòa giữa trà và Đạo dùng trà.

Trà cụ (dụng cụ pha trà).

       Ở Việt Nam, từ rất lâu, nhân dân ta đã biết trồng, hái, chế biến trà với kỹ thuật sao, tẩm hương hoa sen, hoa sói, hoa ngâu, hoa nhài, kỹ thuật bảo quản hương vị cũng như cách pha trà tinh tế. Văn chương dân tộc và thư tịch cổ ít nhiều cũng đã nhắc đến sự xuất hiện từ rất sớm của thứ nước uống này. Sách An nam chí lược của Lê Tắc cho biết thời nhà Đinh, vua Đinh Liễn đã phải cống trà thơm cho Bắc quốc. Bộ chính sử Đại Việt sử ký toàn thư khẳng định dòng trà cung đình đã có mặt ít nhất từ thế kỷ (TK) X và lan truyền rộng rãi nơi lầu son gác tía, chốn cung đình. Văn hóa trà Việt Nam đã được ghi chép từ TK VII trong sách Trà kinh của Lục Vũ – tác giả Trung Hoa đời nhà Đường với sự giới thiệu qua lô (trà) tại Giao Châu (nước ta thời bị nhà Đường đô hộ).
       

Trà ướp hương hoa bưởi.

       Vào thời Lý, văn hóa trà Việt còn xuất hiện một thần trà mang tên Dương Thiên Tích. Sách Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ đã ghi lại: Dương Thiên Tích vốn là vị tiên nghiện trà đầu thai vào nhà Dương Tạc (viên quan nhỏ đời vua Lý Huệ Tông), trên tay có thích chữ T. Khi lớn lên, Thiên Tích rất thích uống trà và trở thành một trà sư nổi danh thời đó.
       Thời Trần, nghệ thuật thưởng trà Việt được Thượng tướng Trần Quang Khải nhắc đến trong bài thơ Vườn Phúc Hưng qua cảnh thư nhàn nơi cung phủ với khách và thưởng thức trà tao nhã:
       Hè đến, pha trà mời khách uống
       Mưa rừng, kêu trẻ tỉa giò lan
       Thưởng thức trà bên suối róc rách chốn lâm tuyền trong bài thơ Tặng sĩ đồ tử đệ của Huyền Quang hòa thượng hay thưởng trà ngày xuân trong bài Xuân đáng của bậc túc nho trí giả Chu Văn An cũng đều là những áng thi trà bất hủ. Trong bài Cảm tác đêm 30 tháng 9, quan tư đồ Trần Nguyên Đán – ông ngoại của Nguyễn Trãi còn miêu tả cung cách pha trà độc đáo thời ấy với hương thơm thanh khiết của trà ướp hoa lan nấu trong vạc, quyện cùng hương cháo nếp:
       Hương độ tiểu đương tân đạo chúc
       Sương ngưng cổ đỉnh thục lan trà
       Dịch nghĩa:
       Sanh nhỏ cháo gạo nếp mới nấu hương đưa thơm
       Trà ướp hoa lan nấu trong vạc cổ đượm hơi sương.
       Đến TK XIX, trà vẫn là thứ đồ uống được ưa chuộng trong thơ trào phúng của Trần Tế Xương:
       Một trà một rượu một đàn bà
       Ba cái lăng nhăng nó quấy ta
       Chừa được cái gì hay cái nấy
       Có chăng chừa rượu với chừa trà!
       Trong cuộc sống, các văn nghệ sĩ thường mượn trà ngon, rượu quý để cảm xúc thăng hoa. Còn người nông dân, khi cày ruộng thường rít mồi thuốc lào nõ điếu, phả khói thơm, chiêu một ngụm trà tươi khi bắt đầu hay kết thúc buổi cày. Tầng lớp công nhân, trí thức thì nghiện trà tàu, thuốc lá vì trà làm con người tỉnh táo, sảng khoái hơn trong công việc và cuộc sống. Trà trở thành đồ uống thông dụng ở các dân tộc phương Đông và cách thưởng thức trà còn được nâng thành nghệ thuật trà đạo.
       Ngay từ thời Trịnh – Nguyễn phân tranh (thế kỷ 16-17) nhiều thương nhân nước ngoài đã đến Việt Nam mua và mang đồ đựng trà, pha trà làm từ sành, sứ, gốm với kiểu dáng, màu sắc dân gian độc đáo sang bán ở Nhật và Hà Lan. Giai đoạn Bắc triều nhà Mạc trị vì từ Ninh Bình trở ra cũng có một loại trà mà các quý tộc và tầng lớp quan lại ưa dùng gọi là Mạc trà.
       Tục uống trà của người Việt đã được đúc rút thành những kinh nghiệm phong phú, những qui tắc ứng xử bất thành văn từ ngàn đời xưa. Nghệ thuật uống trà ở Việt Nam không trở thành đạo trà như Trado của Nhật Bản bởi trà Việt đã được phổ biến rộng rãi trong nhân dân, trở nên dân dã và thân quen với tất cả mọi người. Đồng thời do tính linh hoạt của văn hóa Việt nên nghệ thuật uống trà không chịu gò bó vào một khuôn khổ nhất định nào.
       Tuy nhiên, người sành trà xác định một số yếu tố chính để có một buổi thưởng trà ngon là:
       Nhất thủy: Chính là phần nước để pha trà, nước thường là nước mưa hứng ở giữa trời, nước lấy từ các con suối thiên nhiên hoặc lấy từ nước giếng sâu. Nước sẽ được đun bằng than đến khi sôi sủi tăm để không làm mất đi mùi vị của trà.
       Nhì trà: Là loại trà được chọn để uống, người uống trà thường chọn trà đủ 5 tiêu chí (gọi là ngũ quý): sắc, thanh, khí, vị, thần. Trong đó, “thần” để chỉ sự lôi cuốn của trà đối với người thưởng thức – là yếu tố quan trọng nhất.
       Tam bôi: Là chén uống trà, các loại chén hạt mít, chén mắt trâu hay được dùng để uống và thưởng trà. Trước khi rót trà cần phải tráng qua nước sôi để làm nóng và tẩy vệ sinh.
       Tứ bình: Là ấm pha trà. Có nhiều kiểu bình khác nhau tùy theo các thưởng trà độc ẩm, song ẩm hay quẩn ẩm. Trước khi pha trà cần phải rửa trà bằng một ít nước sôi, sau đó đổ đi rồi mới hãm trà để cho trà nở đều và mang đậm hương vị nhất.
       Ngũ quần anh (5 người tụ lại): Tức là bạn trà, các cụ ngày xưa thường ngồi 5 người quây quần để đàm đạo và thưởng thức trà cùng nhau cho vui và chia sẻ sự đồng cảm, niềm quan tâm chung.
       
       (Nguồn: Trà Việt/ Phạm Văn Thi//Tạp chí Văn hóa nghệ thuật Bộ Văn hóa. – số 346; tháng 4/ 2013. – tr. 99)

Bài viết khác

Tác giả: Hải Phòng Học