
Ảnh minh họa một giá hầu đồng (trên mạng internet).
Trong đời sống tâm linh của người Việt, tục thờ Tam phủ, Tứ phủ là loại hình tín ngưỡng mang đậm tính dân gian bản địa Việt Nam, nghĩa là hoàn toàn không lai tạp hay bắt nguồn từ một nền văn hóa của dân tộc nào. Đây là một trong những yếu tố để UNESCO (Tổ chức Giáo dục, văn hóa, khoa học của Liên Hiệp Quốc) công nhận “Thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ của người Việt là Di sản Văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại” vào tháng 12/2016.
Trong nghi thức thực hành thờ Tam phủ, Tứ phủ của người Việt có một hoạt động hết sức độc đáo là tri ân công đức của các vị thánh (nhân thần hoặc thiên thần) bằng việc hầu đồng (lên đồng, hầu bóng), trong đó các ông đồng, bà đồng (gọi là thanh đồng) trong trang phục đặc trưng của các vị thánh sẽ diễn (hay múa) các động tác miêu tả hoạt động của các vị thánh. Tùy theo sinh hoạt đời thường hay sự nghiệp xưa của các thánh mà các thanh đồng sẽ diễn lại một số động tác tượng trưng như hút thuốc, uống rượu, làm thơ, chèo thuyền, múa hoa, múa quạt, múa gươm, đao, trồng cây, hái thuốc…Họ có thể mang trên mình một số vật dụng đặc trưng cho việc làm của các thánh như đeo gùi, mang dao quắm (bà Chúa Cà phê người Mọi còn hút thuốc bằng cái tẩu dài tới nửa mét). Kèm theo đó, các cung văn (người hát, nhạc công) sẽ hát những bài thơ (hát văn) bằng giọng khi lên bổng, lúc xuống trầm kể lại sự tích, xuất xứ và công lao của các thánh, ca ngợi vẻ đẹp, tài năng của họ với dân, với nước hay thể hiện sự sùng bái, tôn kính các vị thánh trong tiếng nhạc ngũ âm phụ họa. Đây gọi là diễn xướng chầu văn hầu thánh. Trong các màn hầu đồng long trọng, các nhạc công thường mặc trang phục bằng nỉ đỏ, có viền áo màu vàng. Khi diễn xướng hầu thánh, các thanh đồng sẽ tùy theo nhân vật (thánh) mà mình vào vai mà mặc trang phục phù hợp về màu sắc, kiểu cách của dân tộc, địa phương nơi thánh sinh ra.
Khi hầu đồng, các thanh đồng có những người giúp việc (thường là 2) gọi là hầu dâng. Những hầu dâng (thường là nam giới), đôi khi là nữ giới; nam thì mặc màu trắng, nâu hoặc màu mỡ gà, nữ thì màu hồng, trắng hoặc xanh da trời. Họ có nhiệm vụ giúp mặc xiêm y, cài trâm, đeo vòng và thay trang phục cho các thanh đồng trong mỗi giá hầu thánh, dâng rượu, rót nước hoặc che quạt cho thanh đồng lúc uống rượu, nước..v.v..
Cũng cần nói qua về các vị Thánh mẫu cai quản Tứ phủ cùng màu trang phục đặc trưng của họ để lý giải vì sao khi hầu đồng các thanh đồng sẽ tùy theo các giá đồng (màn diễn về các vị thánh) mà mặc trang phục phù hợp.
Trong tín ngưỡng thờ Tứ phủ của người Việt người ta quan niệm có 4 thế giới tồn tại trong tự nhiên là Thiên phủ, Nhạc phủ, Thủy phủ (hay Thoải phủ) và Địa phủ. Trong đó Thiên phủ là thế giới tối cao của trời, Nhạc phủ là thế giới rừng núi, Thủy phủ là thế giới nước (biển cả, sông, suối, hồ nước) và Địa phủ là thế giới của đất đai, âm tào. Cai quản 4 thế giới (gọi là phủ) này là 4 Thánh mẫu có phép thuật và quyền năng do Ngọc Hoàng thượng đế trao quyền. Mẫu thượng thiên (Thiên phủ) có trang phục màu đỏ cai quản thiên phủ, Mẫu Thượng ngàn trang phục màu xanh cai quản Nhạc phủ, Mẫu Thoải cai quản Thủy phủ có trang phục màu trắng, Mẫu Địa cai quản Địa phủ có trang phục màu vàng.
Trong mỗi phủ thì ngoài các Thánh Mẫu, hàng tiếp theo sẽ có các Thánh Bà (Chầu Bà), thánh Cô (12 vị) theo hầu và giúp việc, các Cậu bé, Cô bé ở các bản đền thờ các vị thánh với trang phục đặc trưng có màu sắc giống các vị Thánh Mẫu của phủ mình.
Cùng với sự phát triển tín ngưỡng Tam phủ của người Việt thì về sau người ta thường đồng nhất Mẫu Thượng thiên với Mẫu Địa, thành thử trong đạo Mẫu, người Việt chỉ thờ phổ biến Tam tòa Thành Mẫu là Mẫu Thượng thiên, Thượng Ngàn và Mẫu Thoải (Thủy). Vì thế ta thường thấy trong các khán thờ ở phủ, điện, chùa, miếu thường có tượng 3 vị Thánh Mẫu. Ngồi giữa là Mẫu Thượng thiên (đệ nhất) trong trang phục màu đỏ, bên phải là Mẫu Thượng ngàn (Đệ nhị) trong trang phục màu xanh và bên trái là Mẫu Thủy (Đệ tam) trang phục màu trắng. Đây cũng là thứ tự cao, thấp của ba ngôi Thánh Mẫu theo quan niệm dân gian.
Ngoài Tam tòa Thánh Mẫu, người Việt còn thờ các vị nữ chúa người dân tộc thiểu số (cơ bản có 3 vị gọi là tam vị chúa Mường).
Nếu xét cả 4 phủ (Tứ phủ) thì tín ngưỡng dân gian người Việt còn thờ 5 vị quan lớn cơ bản (Ngũ vị tôn ông) cai quản 4 phương trời và các Chầu bà thay mặt các Thánh Mẫu cai quản Tứ phủ. Ngoài ra trong Tứ phủ, người ta còn thờ các vị Quan Hoàng (10 vị) gọi là thập vị Quan Hoàng.
Với truyền thống tôn thờ người có công với dân, với nước, người Việt còn thờ chư vị Trần triều đời nhà Trần là gia đình của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn nên dân gian có câu “Tháng tám giỗ Cha, tháng ba giỗ Mẹ”. Ở đây “Cha” là Hưng Đạo Vương được nhân dân tôn là Đức Thánh Trần và “Mẹ” là Mẫu Liễu Hạnh – người đứng đầu phủ Thượng thiên và là một trong 4 vị thánh bất tử của thần điện Việt Nam.
Tóm lại, hệ thống các vị thánh trong Tứ phủ khá phức tạp. Họ được người Việt thờ phụng theo quan điểm tâm linh đa thần và chịu ảnh hưởng nhiều từ truyền thống “uống nước nhớ nguồn” (biết ơn người có công với dân, với nước) khi thần thánh hóa các nhân vật lịch sử có thật trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước của dân tộc.
Hầu đồng là một nghi lễ tâm linh độc đáo trong tín ngưỡng thờ Tam, Tứ phủ của người Việt. Ở đó có sự kết hợp của niềm tin về sự hiện diện của các vị thánh trong thân xác các ông đồng, bà đồng, có trang phục dân tộc đầy màu sắc, có các vũ điệu minh họa hoạt động của các thánh hòa trong lời ca du dương, trầm bổng và âm nhạc khi thì khoan thai, lúc thì rộn ràng, có cả mùi hương, trầm thoang thoảng. Tất cả tạo lên không khí linh thiêng, phấn khích trong đám đông, khiến người ta say mê, thích thú. Điều này lý giải vì sao ngày càng có nhiều người quan tâm dự xem hoạt động này và số lượng tín đồ theo các thanh đồng đạo quan ngày một đông.
Ngày xưa hoạt động hầu đồng được coi là mê tín, dị đoan vì bị đánh đồng là lừa bịp, là lợi dụng để buôn thần, bán thánh. Từ khi việc thực hành tín ngưỡng thờ Tam phủ, Tứ phủ của người Việt được UNESCO công nhận là “Di sản Văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại” và dưới ánh sáng của Nghị quyết hội nghị Trung ương 5 (Khóa 8) BCH Trung ương Đảng thì người ta có cái nhìn thoáng hơn khi loại trừ một số yếu tố cho là mê tín dị đoan để giữ lại nét đẹp văn hóa, truyền thống của hoạt động này nhằm “Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà, bản sắc dân tộc”.
Chính vì vậy, việc hầu đồng tại các đền, phủ, tư gia nay đã không bị cấm đoán. Thậm chí hầu đồng còn được công khai biểu diễn trên sân khấu trong các Liên hoan diễn xướng chầu văn hoặc trong các lễ hội truyền thống địa phương.
Trong hoạt động hầu đồng có tới 36 giá (vai) hầu thánh với việc tán dương, tri ân công đức các vị thánh Tam phủ, Tứ phủ. Vậy nên, để giúp mọi người hiểu được các thanh đồng đang hầu vị nào, trang phục ra sao, chúng ta sẽ xem xét tất cả các vị thánh trong Tam, Tứ phủ nói trên:
A.TAM TÒA THÁNH MẪU (Tam Phủ):
Nếu không kể đến Ngọc Hoàng thì ba vị Thánh Mẫu là ba vị Thánh tối cao nhất của đạo Mẫu. Khi hầu đồng người ta phải thỉnh ba vị Thánh Mẫu trước tiên rồi mới đến các vị khác, tuy nhiên khi thỉnh Mẫu người hầu đồng không được mở khăn phủ diện mà chỉ đảo bóng rồi xa giá, đó là quy định không ai được làm trái, và sau giá Mẫu, từ hàng Trần Triều trở đi mới được mở khăn hầu đồng. Theo tín ngưỡng cổ thì ba giá Mẫu hóa thân vào ba giá Chầu Bà (từ Chầu Đệ Nhất đến Chầu Đệ Tam), nên coi như Ba giá Chầu Bà là hóa thân của Ba giá Mẫu.
Ba giá Mẫu trong Tứ Phủ gồm:
1) Mẫu Đệ Nhất Thượng tiên:
Là Cửu Trùng Thanh Vân Công Chúa hay chính là Công Chúa Liễu Hạnh. Đền thờ Mẫu Liễu có ở khắp mọi nơi nhưng quần thể di tích lớn nhất là Phủ Dày, Vụ Bản, Nam Định (Mở hội ngày 3/3 âm lịch), tương truyền là nơi Mẫu hạ trần với các đền phủ như Phủ Chính, Phủ Công Đồng, Phủ Bóng, ngoài ra còn có Đền Sòng ở Thanh Hoá, Phủ Tây Hồ ở Hà Nội.
2) Mẫu Đệ Nhị Thượng Ngàn:
Là Đông Cuông Công Chúa. Tương truyền là vị Thánh Mẫu cai quản Thượng Ngàn (rừng núi). Đền thờ chính Mẫu Đệ Nhị Thượng Ngàn là Đền Đông Cuông, Tuần Quán thuộc tỉnh Yên Bái
3) Mẫu Đệ Tam Thoải phủ:
Là Xích Lân Long Nữ. Tương truyền là vị Thánh Mẫu, con Vua Bát Hải Động Đình, cai quản các sông suối, biển, các mạch nước trên đất Nam Việt. Người ta thường lập đền thờ bà ở các cửa sông, cửa biển để cầu cho biển lặng sóng yên.
3) Mẫu Đệ Tam Thoải phủ:
B. TAM VỊ CHÚA MƯỜNG
3) Mẫu Đệ Tam Thoải phủ:
Trên Toà Sơn Lâm Sơn Trang có 18 Chúa Bói, 12 Chúa chữa bệnh, nhưng khi hầu đồng người ta chỉ thỉnh ba vị tối thượng gọi là Tam Vị Chúa Mường. Ba vị Chúa này là những người phụ nữ nhân đức, cả đời làm việc phúc giúp dân chúng và triều đình nên được người đời nhớ ơn và lập đền thờ.
3) Mẫu Đệ Tam Thoải phủ:
B. Tam vị Chúa Mường gồm:
1) Chúa Đệ Nhất Thượng Thiên (Chúa Đệ Nhất Tây Thiên):
Bà là người giúp vua trị quốc an dân, hơn nữa theo quan niệm tín ngưỡng thì bà là người nắm giữ sổ Tam Tòa, trông coi mọi việc nên được tôn làm Chúa Thượng, ngoài ra thì những người có tài cúng lễ (thày cúng) đều là do bà dạy và ban lộc nên đều phải do bà Chúa Thượng dạy đồng. Tuy nhiên Chúa Đệ Nhất rất ít khi ngự đồng.
Thông thường, trong lễ khai đàn mở phủ mà có dâng đàn Chúa Bói thì người ta thường thỉnh bà về chứng tòa Chúa Đệ Nhất. Khi ngự đồng, chúa mặc áo đỏ (áo lụa thêu phượng hoặc áo gấm), cầm quạt khai quang. Chúa Tây Thiên không có đền thờ chính mà chỉ được thờ trên Đền Hùng thuộc tỉnh Phú Thọ và bà cũng được thờ cận bên Mẫu Tây Thiên ở Tam Dương, Tam Đảo, Vĩnh Phúc. Ngày hội chính của Chúa Đệ Nhất Tây Thiên là ngày 10 tháng
2) Chúa Đệ Nhị Nguyệt Hồ (Chúa Nguyệt Hồ):
Bà là người có tài xem bói, tương truyền, mỗi khi đức vua ra trận đều nhờ người đến thỉnh bà bấm đốt tay xem xét. Trong Tam Vị Chúa Mường thì bà Chúa Nguyệt là bà Chúa Bói danh tiếng bậc nhất và rất hay ngự đồng. Thông thường, khi có mở đàn Chúa Bói mà không thỉnh được cả Tam Vị Chúa Mường về ngự thì người ta thường hay thỉnh bà về chứng cả ba tòa Chúa (màu đỏ, màu xanh và màu trắng) còn bình thường thì Chúa về chứng tòa Chúa Đệ Nhị. Khi ngự đồng, chúa mặc áo xanh, múa mồi. Đôi khi Chúa về ngự còn dùng lá trầu quả cau để xem bói, phán bảo trần gian.
Chúa Nguyệt Hồ được thờ chính tại Đền Nguyệt Hồ ở gần ga Kép, chợ Bố Hạ, tỉnh Bắc Giang (tương truyền là nguyên quán của Bà Chúa Đệ Nhị Nguyệt Hồ). Ngày hội chính của Chúa Đệ Nhị Nguyệt Hồ là ngày 15 và 16 tháng 02 âm lịch.
3) Chúa Đệ Tam Lâm Thao:
Dân gian thành kính gọi bà là Chúa Chữa, Chúa Ót. Tương truyền, bà là công chúa, con gái ruột của Vua Hùng, từ bé đã bị hỏng một bên mắt. Tuy vậy bà vẫn một lòng giúp vua cha trị quốc, bà là người lo việc quân nhu, quân lương trong các cuộc chiến trận, ngoài ra bà còn là người có tài bốc thuốc nam. Bà đi khắp vùng đem tài năng của mình để cứu giúp dân lành. Bà Chúa Đệ Tam Lâm Thao cũng là một người có lòng mộ đạo, thường xuyên ăn chay niệm phật để cầu cho quốc thái dân an.
Như hai vị chúa trên, khi người ta dâng đàn Chúa Bói thì thường thỉnh Chúa về chứng tòa Chúa Đệ Tam. Khi về đồng bà thường mặc áo trắng, có nơi khi hầu bà thì múa mồi như Chúa Bà Đệ Nhị Nguyệt Hồ, nhưng có nơi hầu Chúa lại chỉ dùng quạt khai quang. Chúa Lâm Thao được thờ chính tại Đền Lâm Thao ở Cao Mại, Việt Trì, Phú Thọ (tương truyền là nơi khi xưa chúa lập kho quân nhu quân lương và bốc thuốc cứu dân). Ngày hội chính của Bà Chúa Đệ Tam Lâm Thao tương truyền là 25 tháng 12 âm lịch.
C. NGŨ VỊ TÔN ÔNG (CÔNG ĐỒNG QUAN LỚN)
Là các vị quan lớn trong Tứ Phủ, cai quan bốn phương và đều là các vị hoàng tử, danh tướng, có công với quốc gia. Gọi là Ngũ Vị Tôn Ông vì theo hàng chính là gồm 5 vị quan lớn, nhưng ở một số nơi khi hầu đồng người
1) Quan Đệ Nhất:
Tương truyền là Tôn Quan Đại Thần, sắc phong tước Công Hầu, ngôi Thượng Thiên. Khi ngự đồng mặc áo đỏ thêu rồng và chỉ làm lễ tế và chứng sớ điệp.
2) Quan đệ nhị:
Quan Thanh Tra Giám Sát, sắc phong Thái Hoàng. Tương truyền là người cai quản sơn lâm thượng ngàn, thông tri thiên địa, có thể lệnh sai Hà Bá, Thủy Thần làm mưa làm gió. Khi ngự đồng mặc áo xanh thêu rồng. Đền thờ Quan Đệ Nhị là đền Quan Giám, Lạng Sơn. Chính hội là ngày 10 tháng 11 âm lịch.
3) Quan Đệ Tam:
Quan Tam Phủ, Bơ Phủ Vương Quan, được sắc phong Thái Tử Đệ Tam, con Vua Bát Hải Động Đình, là người nắm giữ kỉ cương nơi Long Cung, cai quản các con sông trên khắp nước Nam.
Theo tương truyền thì ông giáng trần cứu dân, trở thành vị tướng thủy quân tài ba, trong một trận quyết chiến bên sông Lục Đầu, ông hy sinh, bị giặc chém mất đầu, chiếc đầu bay sang bờ bên kia con sông Lục Đầu, vì thế mới có hai đền thờ quan hai bên bờ sông Lục Đầu (Hưng Yên) là Đền Lảnh Giang – nơi thờ mình và Đền Xích Đằng – nơi thờ đầu. Chính hội là ngày 24 tháng 6 âm lịch. Khi ngự đồng mặc áo trắng thêu rồng, tay cầm song kiếm.
4) Quan Đệ Tứ:
Là Quan Khâm Sai, sắc phong Thái Tử Thiên Cung, là người cai quản Tam Giới Tứ Phủ, mười phương trời đất, kiêm cả đạo phật thiền gia.
Khi ngự đồng mặc áo vàng thêu rồng, cũng chỉ làm lễ và chứng điệp sớ. Tuy nhiên, ít người hầu đồng về giá này.
5) Quan Đệ Ngũ:
Là Quan Tuần Tranh, sắc phong Công Hầu, là vị tướng tài dưới thời Hùng Vương 18 cai quản miền duyên hải sông Tranh, giúp vua dẹp giặc Triệu Đà, tuy nhiên do bị oan khuất nên Ông bị đày về vùng Kì Cùng, Lạng Sơn.
Tương truyền, quan Tuần Tranh là người cai quản thiên binh nhà trời, được nhân dân thờ phụng ở khắp các cửa sông mà hai ngôi đền lớn nhất là Đền Quan Lớn Tuần Tranh tại Ninh Giang, Hưng Yên (là nơi quê nhà) ở bên bờ sông Tranh và Đền Kì Cùng, Lạng Sơn (là nơi ông bị đày) bên bờ sông Kì Cùng có cây cầu Kì Lừa. Khi ngự đồng ông mặc áo lam thêu rồng, cầm long đao để giúp dân tróc quỷ trừ tinh, tế độ sinh linh. Ngày mở hội là ngày 25 tháng 5 âm lịch, là ngày Ông bị đi đày.
6) Quan Điều Thất:
Là hàng Quan thứ 7, giá Quan này chỉ một số nơi mới thỉnh về ngự đồng (như Hải Phòng, Hưng Yên, Bắc Ninh). Tương truyền, Ngài cũng là con vua Bát Hải Động Đình, giáng thế giúp dân. Khi ngự đồng ông mặc áo đỏ điều,
D. TỨ PHỦ CHẦU BÀ
Các vị Chầu Bà trong Tứ Phủ là những phụ nữ nhân đức hay các nữ tướng có công với dân với nước nên khi từ trần được nhân dân thờ phụng và được tôn thành các vị Chầu Bà trong Tứ Phủ, được các Thánh Mẫu giao cho cai quản sông núi và mọi việc nhân gian.
Hàng Tứ Phủ Chầu Bà có 12 vị tuy nhiên cũng như ở một số nơi có sự khác nhau, thêm 2 vị nữa vào hàng thứ 3 và thứ 5.
Các vị Chầu Bà gồm:
1) Chầu Đệ Nhất Thượng Thiên:
Được coi là hóa thân của Mẫu Đệ Nhất khi thỉnh đồng. Là vị Chầu tối thượng, đứng đầu hàng Chầu, ngự tại Ngọc Điện, Thượng Giới. Tuy nhiên cũng ít người mở khăn phủ diện để hầu Chầu Đệ Nhất.
2) Chầu Đệ Nhị Thượng Ngàn:
Được coi là hóa thân của Mẫu Đệ Nhị. Bà vốn là Công Chúa Thiên Thai, giáng hạ để cai quản thượng ngàn và tam thập lục châu (36 châu). Khi ngự đồng Chầu mặc áo xanh thêu hoa, đầu vấn khăn xanh, cài trâm hoa, tay cầm mồi tượng trưng cho bó đuốc.
Đặc biệt khi hầu về giá này còn có nghi thức Trình Trầu: Các đệ tử ai có căn mạng hoặc đã tôn nhang bản mệnh, vào ngày hầu đồng trong lễ Thượng Nguyên (đầu năm mới), ngồi phủ khăn đỏ, đầu đội mâm trầu cau để “trước trình Phật Thánh, sau trình Vua Cha, trình lên Tứ Vị Vua Bà, trình đồng Tiên Thánh, trình tòa Sơn Trang, trình lên Thập Vị Quan Hoàng, Tiên Cô, Thánh Cậu chứng mâm trầu trình”.
Khi Trình Trầu người ngồi lễ phải đặt lên mâm trầu cau 12 tờ tiền đồng, tượng trưng dâng lên 12 giá chính của hàng Chầu Bà là những vị giúp mình được đội trầu. Đền thờ Chầu Đệ Nhị là Đền Đông Cuông, Tuần Quán, Yên
3) Chầu Đệ Tam Thoải Cung:
Được coi là hóa thân của Mẫu Đệ Tam, là Lân Nữ Công Chúa, Ngọc Hồ Thần Nữ, vốn là con vua Thủy Tề, ngự tại Thủy Phủ Thiên Thai chốn Thoải Cung, Tam Phủ. Bà được coi là người cai quản các sông suối biển hồ mạch nước trên đất Việt.
Có nơi còn đưa Chúa Thác Bờ vào hàng Chầu Bà và người ta thỉnh Chúa Thác Bờ sau giá Chầu Đệ Tam hoặc không thỉnh Chầu Đệ Tam mà thỉnh luôn Chúa Thác Bờ. Tương truyền Chúa Thác Bờ vốn là tiên nữ giáng sinh tại nơi thắng tích, dạy người Mường biết trồng trọt, đánh bắt cá dưới sông Đà. Khi ngự đồng có lúc Chúa mặc áo trắng và khăn choàng trắng, có khi lại mặc váy đen áo trắng đai xanh, bên hông có xà tích bạc, túi dao quai, một tay cầm mồi, một tay cầm mái chèo. Đền thờ Chúa Thác Bờ là Đền Thác Bờ ở Kim Bôi, Hoà Bình.)
4) Chầu Đệ Tứ Khâm Sai:
Bà được phong danh là Chiêu Dung Công Chúa, giáng thế là Chầu Bà Khâm Sai giúp dân, có quyền tra sổ Thiên Đình để đổi số nhân sinh… Khi ngự đồng bà mặc áo vàng thêu rồng, một tay cầm kiếm, một tay cầm cờ để đi cứu dân. Đền thờ bà là Đền Khâm Sai hay Phủ Bà Đệ Tứ (đền Cây Thị) ở Quý Hương, An Thái, Vụ Bản, Nam Định.
5) Chầu Năm Suối Lân:
Bà là vị Chầu trên Sơn Trang Thượng Ngàn, trấn cửa rừng Suối Lân dưới thời Lê Trung Hưng. Khi ngự đồng mặc áo xanh hoặc áo lam thêu hoa đỏ, đầu vấn khăn chàm tím. Đền Chầu là đền Suối Lân, ngay bên cầu Sông Hóa 2 ở Lạng Sơn, bên cạnh đền là suối Suối Lân.
Cần nói thêm về Chúa Bà Năm Phương (chúa Bà ngũ phương) thường được hầu ở Hải Phòng và được thỉnh trước giá Chầu Năm Suối Lân. Tương truyền, Chúa vốn là Bạch Hoa Công Chúa, giáng sinh vào nhà họ Vũ ở cửa Cấm Giang, được giao là người cai quản bản cảnh ngũ phương trong trời đất. Khi ngự đồng, có lúc mặc cả bộ trắng, có khi chỉ phủ chiếc khăn phủ diện đỏ làm khăn choàng… Người ta thường dâng Chúa bộ nón hài và đĩa hoa trắng, trong đàn mã mở phủ phải có một cỗ xe trắng dâng Chúa Bà. Đền chính thờ Chúa bà là Đền Cấm (nay là chùa phối thờ) ở Phố Cấm, Lê Lợi, Hải Phòng.
6) Chầu Lục Cung Nương:
Bà là Lê Triều Lục Cung Công Chúa trên Thượng Ngàn, cũng như Chầu Năm, bà trấn cửa rừng Chín Tư. Tương truyền bà có phép hô thần chú làm cả núi rừng chuyển động, tà ma phách tán hồn xiêu, người trần gian ai không biết mà làm điều trái luân thường đạo lý, độc ác, sẽ bị Chầu hành cho điên dại. Khi ngự đồng Chầu thường mặc trang phục gần giống với Chầu Năm Suối Lân. Đền Chầu lập tại rừng Chín Tư, Hữu Lũng, Lạng Sơn, gọi là đền Lũng, ngày mở hội là 20 tháng 9 âm lịch.
7) Chầu Bảy Kim Giao:
Tương truyền bà cũng là vị Chầu Bà của dân tộc “Mọi”, bà giúp tộc “Mọi” biết làm ăn buôn bán nên được nhân dân nhớ ơn lập đền thờ. Khi ngự đồng Chầu mặc áo gấm tím. Đền Chầu là Đền Kim Giao, Mỏ Bạch, Thái Nguyên.
8) Chầu Tám Bát Nàn:
Bà tên thật là Vũ Thục Nương, quê ở Tiên La, Đông Hưng, Thái Bình. Bà là Nữ Tướng dưới thời Hai Bà Trưng, phất cờ khởi nghĩa tại quê nhà để trả thù cho tướng công là Phạm Hương và cứu dân thoát khỏi Bát Nạn (8 nạn) nên nhân dân suy tôn làm Bát Nàn Đại Tướng Quân (Bát Nàn là đọc chệch đi của từ Bát Nạn), sau này (năm 43 SCN) bà hy sinh tại thị trấn Đồng Mỏ, Lạng Sơn.
Nhân dân thương tiếc và lập đền thờ bà ở 2 nơi là Đền Tiên La, Đông Hưng, Thái Bình và Đền Đồng Mỏ, Lạng Sơn. Khi ngự đồng Chầu Bà mặc áo vàng, đội khăn đóng, sau lưng giắt kiếm cờ, hai tay cũng cầm kiếm và cờ lệnh xông pha một mình phá mấy vòng vây. Ngày mở hội lễ bà là ngày 17 tháng 3 âm lịch.
9) Chầu Chín Cửu Tỉnh:
Bà là Chầu Cửu (âm Hán: Cửu Tỉnh là Chín Giếng) cai quản giếng âm dương điều hòa định thái. Khi ngự đồng Chầu mặc áo hồng, cầm quạt khai quang. Đền Chầu ngự cũng là đền Sòng ở Bỉm Sơn, Thanh Hóa và nhiều nơi khác.
10) Chầu Mười Mỏ Ba:
Bà là Nữ Tướng trấn giữ ải Chi Lăng, giúp vua Lê Thái Tổ giết được tướng giặc Liễu Thăng, sau lại giúp dân lập ấp lên vùng Mỏ Ba, được triều đình phong công, nhân dân nhớ ơn… Khi ngự đồng Chầu mặc áo vàng, đeo vòng bạc đai xanh mĩ miều, chân quấn xà cạp, tay cầm kiếm, tay cầm cờ hoặc mồi. Đền Chầu là Đền Mỏ Ba, lập ngay sát ải Chi Lăng, Lạng Sơn.
11) Chầu Bé Thượng Ngàn:
Đây là tên gọi chung các vị Chầu Bà người Thổ Mường, hầu hàng thứ 11, được coi là các vị Chầu Bé đành hanh nhưng tài phép, cai quản Tòa Sơn Trang, có Thập Nhị Bộ Tiên Nàng hầu cận. Khi ngự đồng mặc quầy (váy) xám; áo (dân tộc thiểu số), đầu chít khăn thổ cẩm, chân quấn xà cạp, vai đeo gùi tay cầm mồi soi đường.
Có rất nhiều vị Chầu Bé ở các Đền khác nhau, nhưng người ta hay thỉnh nhất là các vị sau: Chầu Bé Bắc Lệ, Chầu Bé Đông Cuông, Chầu Bé Đồng Đăng và Chầu Bé Tam Cờ.
12) Chầu Bé Thoải Cung:
Cô cũng là chầu Bé nhưng là ở dưới thế giới nước chứ không phải trên Thượng ngàn như các Chầu Bé ở hàng thứ 11 nên được thỉnh riêng đứng hàng thứ 12. Tuy nhiên cũng có rất ít người hầu về giá này.
E. TỨ PHỦ ÔNG HOÀNG:
Cũng như hàng Quan Lớn, các Ông Hoàng cũng là những hoàng tử hay danh tướng có tài giúp dân, giúp nước nên được nhân dân thờ phụng.
Hàng Ông Hoàng gồm:
1) Ông Hoàng Cả:
Vốn là con Đức Vua Cha, giáng trần mang vẻ lịch sự tươi tốt, độ cho dân chúng ấm no, hạnh phúc. Khi ngự đồng ông mặc áo đỏ thêu rồng kết thành hình chữ thọ, đầu đội khăn xếp, có phủ vỉ lép màu đỏ.
2) Ông Hoàng Đôi:
Còn gọi là Quan Triệu Tường. Ông là danh tướng họ Nguyễn, thời phù Lê dẹp Mạc, có công lớn với nhà Lê. Khi ngự đồng mặc áo xanh thêu rồng kết thành hình chữ thọ, đầu đội khăn xếp, có phủ vỉ lép xanh, tay cầm lá cờ lệnh to may bằng vải ngũ sắc. Đền thờ ông là Đền Quan Triệu ở Thanh Hóa.
3) Ông Hoàng Bơ:
Vốn là con vua Bát Hải Động Đình, thường phù trợ cho người làm ăn buôn bán sông nướcc và những ngư dân đánh cá…
Khi ngự đồng ông mặc áo trắng thêu rồng kết thành hình chữ thọ, đai vàng, đầu đội khăn xếp có phủ vỉ lép trắng, tay cầm đôi hèo hoa, cũng có khi một tay cầm quạt, một tay cầm mái chèo. Đền thờ ông thường được lập ở các cửa sông.
4) Ông Hoàng Bơ Bắc Quốc:
Ông vốn là thương gia bên Trung Quốc, từ nước Đại Yên sang Nam Việt bán buôn và cứu giúp người nghèo khổ lên được suy tôn làm Ông Bơ nhưng là Ông Bơ Bắc Quốc để phân biệt với Ông Hoàng Bơ Thoải của Việt Nam. Khi ngự đồng ông mặc áo tàu đội mũ ô sa. Đền thờ ông là Đền Quan trên Bắc Giang.
5) Ông Hoàng Bảy Bảo Hà:
Ông vốn là con vua Thượng Đế Ngọc Hoàng, giáng vào nhà họ Nguyễn, người Tày Nùng làm người con thứ bảy. Ông là người có công giúp vua Lê dẹp giặc trên vùng biên giới và giúp dân chúng khai hoang lập ấp, nên sau khi ông hy sinh trôi dạt vào nơi bên phà Trái Hút, người dân lập đền thờ ông.
Khi ngự đồng ông mặc áo lam thêu rồng kết thành hình chữ thọ, đầu đội khăn xếp phủ vỉ lép xanh lam, tay cầm đôi hèo hoa phi ngựa đi chấm đồng, nếu người nào được ông ném cây hèo vào người thì coi như người đó đã được chấm đồng và phải ra hầu Tứ Phủ, khi ông ngồi ngự có điệu hát dâng trà, rồi cả điệu hát miểu tả khi thanh nhàn ông ngồi đánh tổ tôm, tam cúc. Đền thờ ông là Đền Bảo Hà, bên bến phà Trái Hút, thị xã Lào Cai.
6) Ông Hoàng Mười Nghệ An:
Còn gọi là Ông Mười Củi, vốn là thần tiên trong chốn Đào Nguyên, giáng trần trở thành vị tướng tài dưới thời nhà Lê. Không chỉ giỏi cầm quân ông còn là người có tài năng về văn chương thơ phú … Khi ngự đồng ông mặc áo vàng thêu rồng kết thành hình chữ thọ, đầu đội khăn xếp có vỉ lép vàng trên đầu, các đệ tử thường lấy tờ tiền cài vào que hương tượng trưng cho việc dâng ông lá cờ.
Những người muốn xuất ngoại, làm ăn buôn bán hoặc học hành thành công đều đến cửa ông để xin lộc. Đền ông là Đền Chợ Củi, qua cầu Bến Thủy, bên dòng sông Lam, Nghệ An.
G. TỨ PHỦ TIÊN CÔ:
Tứ Phủ Tiên Cô là một hàng gồm các cô tiên nàng theo hầu cận các Thánh Mẫu, Chúa Mường, Chầu Bà. Các Tiên Cô là những cô gái đoan trang, liệt nữ, có công với giang sơn xã tắc nên được nhân dân lập đền thờ phụng.
Tứ Phủ Tiên Cô gồm:
1) Cô Nhất Thượng Thiên:
Cô là Tiên Nữ trên Ngọc Điện, hầu Vua Mẫu, thường giúp trần gian có lời kêu cầu tấu thỉnh với các Tòa các giá trong Tứ Phủ. Có khi cô giáng trần làm phép hóa ra thuốc trị bách bệnh, cũng có Cô Nhất rong chơi khắp chốn từ Hà Nội, Hải Phòng đến Quảng Bình, Quảng Trị …. Khi ngự đồng cô mặc áo lụa đỏ thêu hoa phượng, đội khăn đóng phủ vỉ lép đỏ, cài hoa, tay cầm đôi quạt ngà như để quạt mát cho thế gian. Đền Cô Nhất thuộc tỉnh Nam Định.
2) Cô Đôi Thượng Ngàn:
Cô là Công Chúa Sơn Tinh, là vị Tiên Cô hầu Thánh Mẫu Thượng Ngàn. Cô đại tài, tiếng tăm lừng lẫy, được Thánh mẫu yêu thương. Cô có rất nhiều đệ tử. Khi ngự đồng cô mặc áo lá xanh, đầu vấn khăn kết thành hình hoa, có vấn vỉ lép xanh, tay cầm mồi. Đền Cô nằm gần Đền Đông Cuông, trước cửa Đền Cô có giếng nước quanh năm trong vắt.
(Có nơi thờ Cô Đôi Cam Đường thay Cô Đôi Thượng Ngàn với truyền thuyết: Cô là tiên nữ xinh đẹp, giáng sinh ở đất Đình Bảng, Bắc Ninh, gia đình nối đời buôn bán vải tơ. Cô bán vải từ đường Quan Lộ, Chợ Dầu, Đình Bảng với đủ các loại tơ lụa, vải sồi, lĩnh tía, chàm xanh, nâu non. Khi ngự đồng cô mặc áo tứ thân xanh, chít khăn mỏ quạ, đội nón quai thao (nón ba tầm), trên vai là chiếc đòn gánh cong với hai đầu là đôi túi đẫy đựng vải. Tuy cô quê ở Bắc Ninh nhưng lại hiển thánh tại thị xã Cam Đường, Lào Cai nên nhân dân nhớ ơn đã lập đến cô là Đền Cô Đôi Cam Đường.)
3) Cô Bơ Hàn Sơn:
Còn gọi là Cô Bơ Bông. Cô là con Vua Thủy Tề hầu trong Cung Quảng Hàn, rất xinh đẹp, lại đàn hát cũng hay nên được Đức Vương Mẫu phong là Công Chúa Ba Bông hay Công Chúa Thủy Cung, cùng quan sứ giả chọn ngày lành để giáng trần thành cô thiếu nữ đất Hàn Sơn. Khi ngự đồng cô mặc áo trắng pha màu tuyết, đầu đội khăn đóng, vấn khăn ngang ba màu, tay cầm đôi mái chèo để vân du khắp nơi, cũng có khi cô cầm dải lụa để đi đo đất đo mây.
Đền thờ cô là Đền Cô Ba Bông ở Hà Trung, Thanh Hóa, ngay cửa sông. Mở hội vào ngày 12 tháng 6 âm lịch.
4) Cô Tư Ỷ La:
Theo tài liệu cổ thì cô Tư là Tiên Nữ theo hầu Mẫu Thượng. Cô xinh đẹp dịu dàng, được Mẫu hết mực yêu quý. Khi thanh nhàn cô thường dạo chơi cảnh Tây Hồ với chiếc áo lụa vàng tha thướt thêu hoa lá. Cô được thờ trên đền Ỷ La (Tuyên Quang).
5) Cô Năm Suối Lân:
Cô là Tiên. Nàng người dân tộc theo hầu Chầu Năm Suối Lân. Cô ở Thượng Ngàn, là người cai quản con suối Suối Lân. Khi ngự đồng cô mặc áo xanh hoặc áo lam, đầu vấn khăn hình củ ấu và tay cầm đôi mồi lửa. Đền cô là ngôi đền nhỏ cạnh đền Chầu Năm, bên bờ sông Hóa ở Lạng Sơn.
6) Cô Sáu Sơn Trang:
Cô là Tiên Nàng hầu cận Mẫu Thượng Trang Châu, cũng có nơi nói cô là người kề cận Chầu Lục Cung Nương và gọi cô là Cô Sáu Lục Cung, nhưng các tài liệu đều thống nhất cô Sáu là người có tài bốc thuốc cứu người, cô rất ghét người ăn nói quanh co, điêu ngoa. Khi giáng đồng cô mặc áo lam ngắn vạt, dài tay, chít khăn xanh, trâm cài, lược dắt, tay cầm bó mồi.
7)Cô Bảy Kim Giao:
Cô theo hầu Chầu Bảy Kim Giao trên đất Thanh Liên, Mỏ Bạch, Thái Nguyên, cũng là người dân tộc “Mọi”. Cô hiển ứng, đêm đêm mắc võng đào cùng các bạn tiên ngồi ca hát. Khi về đồng cô mặc áo lụa tím.
8) Cô Tám Đồi Chè:
Cô là thiếu nữ hái chè đất Hà Trung, cũng một lòng giúp vua, tuy chưa được đền đáp nhưng cô được dân lập đền thờ là đền Phong Mục, Hà Trung, Thanh Hóa, cách đền Cô Bơ Bông một con sông. Khi ngự đồng cô mặc áo xanh váy xanh, đầu kết khăn xanh, cô múa mồi rồi múa dáng điệu hái chè.
9) Cô Chín Sòng Sơn:
Còn gọi là cô Chín Giếng, Chín Rồng, Chín Suối, theo hầu Mẫu Sòng, có tài xem bói và có phép thần thông quảng đại…. Nhân dân cầu đảo linh ứng liền lập đền thờ là Đền Cô Chín ở Thanh Hóa, cách đền Sòng Sơn khoảng 30km. Khi ngự đồng cô mặc áo hồng phớt màu đào phai, có khi cô múa quạt tiến Mẫu, múa cờ tiến Vua, cũng có khi cô thêu hoa dệt lụa, rồi lại múa cánh tiên. Lễ vật dâng cô: Nón đỏ hài hoa vòng hồng…
(Có nơi thờ cô Chín Tít Mù thay cô Chín Giếng nhưng khác ở điểm: Cô Chín Tít Mù ở trên Thượng Ngàn, có tài trị bệnh bằng nước suối, tuy nhiên cũng rất ít người hầu về giá này. Đền cô Chín Tít Mù lập ở đường lên Chầu Mười Mỏ Ba, ngôi miếu nhỏ có suối nước thiêng, ai kêu cầu cô thì dâng cô nón đỏ hoặc nón xanh để xin thuốc chữa bách bệnh.)
10) Cô Mười Mỏ Ba:
Cô theo hầu Chầu Mười Mỏ Ba, giúp vua đánh giặc Ngô. Khi ngự đồng cô mặc áo vàng cầm cung kiếm, cưỡi trên mình ngựa theo Chầu Bà xông pha trận mạc. Cô cũng được thờ tại đền Chầu Mười.
11) Cô Bé Thượng Ngàn:
Cũng như Chầu Bé, các vị cô bé đều là những bộ nàng trên Tòa Sơn Trang, hầu Mẫu Thượng Ngàn. Có rất nhiều cô bé trên khắp các cửa rừng lớn nhỏ. Các cô về mặc quần áo thổ cẩm, chân quấn xà cạp, đeo kiềng bạc, tay cầm ô, vai đeo gùi.
Các cô bé gồm: Cô Bé Thượng Ngàn (Thị Xã Lạng Sơn), Cô Bé Suối Ngang (Hữu Lũng), Cô Bé Đèo Kẻng (Thất Khê), Cô Bé Đông Cuông (Yên Bái), Cô Bé Tân An (Lào Cai), Cô Bé Cây Xanh (Bắc Giang), Cô Bé Nguyệt Hồ (Bắc Giang), Cô Bé Minh Lương (Tuyên Quang), Cô Bé Cây Xanh (Tuyên Quang) và Cô Bé Thác Bờ (Hòa Bình)
Cô Bé Thoải Phủ:
Cô Bé ngự dưới tòa Thoải Phủ, chỉ tráng bóng chứ không mở khăn, đứng hàng 12 trong các cô.
TỨ PHỦ THÁNH CẬU
Là các vị cậu chết trẻ, tinh nghịch, thường phù hộ cho các gia đình buôn bán cũng như những người muốn cầu học hành.
Tứ Phủ Thánh Cậu gồm:
1) Cậu Hoàng Cả; 2) Cậu Hoàng Đôi; 3) Cậu Hoàng Bơ; 4) Cậu Bé Đồi Ngang (Cậu Hoàng Quận); 5, Cậu Bé Đồi Non
Ngoài ra ở mỗi bản đền lại có một cậu bé coi giữ gọi là cậu bé bản đền, trong đó thường hay ngự đồng như: Cậu Bé Phủ Bóng, Cậu Bé Đông Cuông….
Các cậu về (ngự đồng) thường mặc áo cánh các màu ứng với mỗi giá, đầu vấn khăn, hai bên tay thường có hoa cài, chân quấn xà cạp, đi giày thêu. Các cậu về thường làm lễ tấu rồi đi hèo hoặc múa lân.
I. CHƯ VỊ TRẦN TRIỀU
1) Đức Thánh Ông Trần Triều:
Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn được tín ngưỡng dân gian tôn làm Đức Thánh Trần, giúp dân sát quỷ trừ ma, trừ dịch bệnh, thế nên ở đâu có giặc dã dịch bệnh thì đều cầu đảo Ngài tất đựoc linh ứng. Khi hầu đồng về giá này, thanh đồng mặc áo bào đỏ thêu rồng, tay cầm thanh đao, ngoài ra theo một tục cổ, khi hầu về giá Đức Thánh Trần Triều, người hầu đồng còn cầm dải lụa đỏ rồi mô phỏng động tác thắt cổ. Đền thờ Ngài cũng có ở rất nhiều nơi nhưng lớn nhất vẫn là đền Kiếp Bạc, Chí Linh, Hải Dương với hội mở ngày 20/8 âm lịch.
2) Đệ Nhất Vương Cô:
Cô là con gái lớn của Hưng Đạo Đại Vương. Khi về đồng hay mặc áo đỏ thêu rồng, đội khăn đóng, vấn khăn đỏ phủ lên, tuy nhiên có ít người hầu giá này mà chỉ hay hầu về Đức Thánh Trần và Đệ Nhị Vương Cô.
3) Đệ Nhị Vương Cô:
Cô là con gái thứ của Hưng Đạo Đại Vương. Khi về đồng hay mặc áo xanh thêu rồng, đội khăn đóng, vấn khăn xanh phủ lên, có kiếm cờ giắt sau lưng, hai tay cũng cầm kiếm và cờ, theo quan niệm, cô cũng là người có phép sát quỷ trừ tà, người hầu về giá này thường đốt một bó hương rồi cho vào miệng ngậm tắt lửa gọi là tiến lửa hay ăn lửa để tróc tà.
Phạm Văn Thi, hội viên Hội VNDG Hải Phòng sưu tầm, biên soạn.