
Ảnh tượng Phật Hoàng Trần Nhân Tông trên núi Yên Tử.
Trần Nhân Tông (1258-1308) là con đầu của Trần Thánh Tông. Ông là một vị vua anh minh, quả cảm, nhiều lần xông pha trận mạc, hai lần (1258, 1288) đánh tan quân Nguyên Mông xâm lược. Đây là một chiến công chói lọi trong lịch sử dân tộc vì quân Nguyên là đội quân hùng mạnh vào bậc nhất thế giới thời bấy giờ, đã từng xâm lược nhiều nước châu Âu và châu Á. Từ thủa thiếu thời Trần Nhân Tông đã muốn tu theo Phật nhưng vua cha Trần Thánh Tông tha thiết khuyên nhủ khiến ngài tạm từ bỏ ý định xuất gia. Khi đất nước đã thanh bình, hoàn thành đạo hiếu với cha và nghĩa vụ với quốc gia, nhà Vua giao lại ngai vàng cho con là Trần Anh Tông, quyết chí lên núi Yên Tử tu thiền. Ngài đã lập ra thiền phái Trúc Lâm Yên Tử – dòng tu Phật giáo mang bản sắc tiêu biểu của tôn giáo Việt Nam.
Trong những áng thơ, kệ Trần Nhân Tông sáng tác, có bài Bài kệ “Cư trần lạc Đạo” của Phật hoàng Trần Nhân Tông. Bài kệ chỉ có 4 câu, 28 chữ, lời thơ giản dị nhưng chứa đựng triết lý sâu xa, hầu như bao hàm cốt lõi, yếu chỉ của dòng thiền Trúc Lâm.
Nguyên văn bài kệ:
Cư trần lạc đạo thả tuỳ duyên,
Cơ tắc xan hề khốn tắc miên.
Gia trung hữu bảo hưu tầm mịch,
Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền.
Dịch nghĩa:
Sống ở cõi trần, vui với Đạo và tùy theo duyên
Đói thì ăn, mệt thì ngủ
Trong nhà sẵn của báu, đừng tìm đâu khác
Đối với mọi cảnh vật mà vẫn giữ được cái tâm vô vi, bất động thì không cần phải hỏi về thiền.
Dịch thơ:
Cõi trần vui Đạo cứ tùy duyên,
Đói bụng thì ăn mệt ngủ liền.
Báu vật trong nhà thôi tìm kiếm,
Đối cảnh vô tâm khỏi hỏi thiền.
Kiến giải:
“Duyên”, tiếng Phạn gọi là Pratyaya, Pali gọi là Paccaya, có nghĩa là diều kiện. Sách Trung luận ghi : “chúng duyên hợp” (các điều kiện hội đủ). “Tuỳ duyên” tiếng Phạn gọi là Yatha-Pratyaya, nghĩa là thuận theo với biến đổi của hoàn cảnh (điều kiện). Sách Ðại thừa khởi tín luận giải thích “chân như” có hai nghĩa: nghĩa thứ nhất, cũng giống như Duy thức luận, chân như là chân lí tối cao. Trên đời này không thể có cái gì tồn tại độc lập tự nó được, mọi thứ đều do duyên khởi mà thành, cho nên tất cả là “không”. Nghĩa thứ hai, ngoài chân lí tối cao ra, chân như còn là biểu hiện của tâm, vừa ở trạng thái tịnh vừa ở trạng thái động, động – tịnh như nhau (động – tịnh nhất như), cho nên gọi là tâm chân như. Chân như vừa có tính khách thể vừa có tính chủ thể. Nói cách khác, chân như vừa bất biến vừa tuỳ duyên. Cho nên Trần Nhân Tông vừa theo với đời (tuỳ duyên) nhưng không bị đời lôi cuốn (bất biến).
“Ðói thì ăn, mệt thì ngủ”, điều đó tưởng chừng quá dễ nhưng thực ra người đời lao vào cảnh bon chen cho nên ăn không ngon, ngủ không yên là chuyện thường. Mấy ai đã thực hiện được điều tưởng chừng quá dễ đó?
“Của báu sẵn trong nhà khỏi tìm kiếm”, Thiền tông cho rằng Phật tính có sẵn nơi con người. Ðàn kinh ghi : “Kiến tính thành Phật”. Sách Truyền tâm pháp yếu ghi: “Tổ sư Tây lai trực chỉ nhân tâm, kiến tính thành Phật, bất tại ngôn thuyết” (Tổ sư từ phương Tây đến, chỉ thẳng cho con người rằng Phật tính tại tâm chứ không phảỉ ở lời nói).
“Ðối cảnh vô tâm”, ý nghĩa từ kinh Kim cương : “Ưng vô sở trụ nhi sinh kì tâm” (Ðừng để tâm biến động theo bên ngoài). Lục tổ Huệ Năng sở dĩ giác ngộ là do câu này.
Với tâm hồn đạt đạo, Trần Nhân Tông đã bình thản trước mọi cám dỗ vật dục, từ đó yêu ra yêu, ghét ra ghét, sống ra sống, chết ra chết. Ðó là khí phách và tâm hồn của con người Việt Nam.
Bài kệ trên đây đã phản ánh đúng cuộc đời thực của Phật hoàng Trần Nhân Tông. Điều này đã được kể lại trong sử sách:
Cõi trần vui Đạo cứ tùy duyên.
Sơ Tổ thiền phái Trúc Lâm Phật hoàng Trần Nhân Tông (1258–1308) tên thật là Trần Khâm, là con trai đầu lòng của vua Trần Thánh Tông và Nguyên Thánh Thiên Cảm hoàng hậu Trần Thị Thiều.
Ngay từ khi sinh ra, Ngài đã tinh anh thánh nhân, thuần túy đạo mạo, sắc thái như vàng, thể chất hoàn hảo, thần khí tươi sáng, nên vua cha và ông nội, cũng tức là Thái thượng hoàng Trần Thái Tông, đã gọi Ngài là Kim Tiên đồng tử.
Năm mười sáu tuổi được lập làm Hoàng thái tử, Ngài cố từ chối để nhường lại cho em mà vua cha không chịu. Vua cưới trưởng nữ của Nguyên Từ quốc mẫu cho Ngài, tức là Khâm Từ thái hậu sau này.
Sống trong cảnh vui hòa hạnh phúc ấy mà tâm Ngài vẫn thích đi tu. Một hôm vào lúc giữa đêm, Ngài trèo thành trốn đi, định vào núi Yên Tử. Đến chùa Tháp ở núi Đông Cứu thì trời vừa sáng, trong người mệt nhọc quá, Ngài bèn vào nằm nghỉ trong tháp.
Vị sư trụ trì ở đây thấy Ngài tướng mạo khác thường, liền làm cơm thết đãi. Vua cha hay tin, sai các quan đi tìm, Ngài bất đắc dĩ phải trở về.
Ngài thường ăn chay nên thân thể gầy ốm. Thánh Tông thấy thế lấy làm lạ, nên hỏi nguyên do, Ngài trình thật với cha. Thánh Tông khóc bảo: “Nay ta đã già, chỉ trông cậy một mình con, con lại làm như thế, làm sao gánh vác được sự nghiệp của tổ tiên?”.
Ngài nghe dạy cũng rơi nước mắt. Thế là Ngài theo cái duyên phận của kẻ làm con, tận chữ hiếu, dốc sức theo học đạo kinh bang tế thế, an lòng vua cha, kế nghiệp tổ tiên.
Khi giặc Nguyên sang xâm chiếm, Ngài với duyên phận và trách nhiệm của xã tắc đã đoàn kết quân dân, đích thân xông pha nơi mũi tên hòn đạn, cổ vũ khích lệ tướng sỹ, trên dưới một lòng nên đã hai lần đại phá quân Nguyên, giữ gìn trọn vẹn đất nước.
Chiến công thần kỳ hai lần đại phá quân Nguyên Mông của quân dân Đại Việt đã chấn động bốn cõi, được Nguyễn Sưởng tóm tắt bằng câu thơ:
Thùy tri vạn cổ Trùng Hưng nghiệp,
Bán tại quan hà bán tại nhân.
Dịch:
Đại nghiệp Trùng Hưng ngời vạn cổ,
Nửa bởi non sông nửa do người.
Làm tròn chữ hiếu của kẻ làm con, làm trọn đạo nhân nghĩa của bậc quân vương, lấy sinh mệnh đền ơn tiên tổ, trọn trách nhiệm của bậc trượng phu với sơn hà xã tắc, trọn nghĩa vụ của bậc thiên tử chăm lo cuộc sống bách tính lê dân, an cư lạc nghiệp sau những năm chiến tranh tàn phá, trọn trách nhiệm của bậc làm cha, dạy dỗ chỉ bảo cho hoàng tử khôn lớn, đủ tài đức gánh vác non sông.
Năm 1299, Ngài rời khỏi danh lợi chốn hồng trần, lên Yên Tử tẩy sạch tâm trần, theo cái duyên hằng mong mỏi, xuất gia tu luyện, trở về với tâm nguyện xa xưa, vững bước trên con đường phản bổn quy chân, về miền tịnh thổ.
Sau khi khổ tu, khai ngộ, đắc Đạo, Ngài lại thuận theo cái duyên của bậc Giác Ngộ, giáo hóa văn minh cho bách tính lê dân, hoằng dương Phật Pháp khắp xa gần, trong và ngoài bờ cõi.
Ngài chuyên cần tu tập theo hạnh đầu-đà (khổ hạnh) lấy hiệu là Hương Vân Đại Đầu-đà. Sau đó Ngài lập chùa, cất tịnh xá, khai giảng để tiếp độ chúng Tăng. Học chúng đua nhau đến rất đông. Sau, Ngài đến chùa Phổ Minh ở phủ Thiên Trường lập giảng đường, giảng dạy mấy năm.
Thiền phái Trúc Lâm vừa tiếp thu nền tảng Phật giáo Nam Á và thiền Đông Độ, vừa sử dụng các giá trị văn hóa Việt Nam và khuyến khích Phật tử cống hiến cho xã hội trên nền tảng Từ bi – Trí tuệ của Phật pháp. Ngài cũng xây dựng nhiều tự viện và đi giáo hóa trong cả nước, kể cả ở thôn quê lẫn thành thị.
Trên cương vị là Thượng hoàng-Thiền sư, Ngài đã dạy dân bài trừ các hủ tục và tu dưỡng đức hạnh theo giáo pháp Thập thiện (mười điều thiện).
Ngài lại vân du đến trại Bố Chánh lập am Tri Kiến (ở Quảng Bình) rồi ở đó. Bài dẫn của Trần Quang Chỉ trong tranh “Trúc Lâm đại sĩ xuất sơn đồ” đã mô tả về chuyến đi này rằng:
“Có lúc ngài viễn du hóa độ cho các nước lân bang, phía nam đến tận Chiêm Thành, đã từng khất thực ở trong thành. Vua nước Chiêm Thành biết được điều đó, hết sức kính trọng thỉnh mời, dâng cúng trai lễ, sắp sẵn thuyền bè nghi trượng, thân hành tiễn ngài về nước…”.
Cũng chính trong lần đi hoằng Pháp này, Ngài đã hứa gả con là công chúa Huyền Trân cho vua Chiêm là Chế Mân. Để đáp lễ, Chế Mân xin nhượng hai châu Ô, Lý cho Đại Việt.
Đến ngày mùng 1 tháng 11, đêm trời trong sao sáng, Ngài hỏi thị giả Bảo Sát:
“Hiện giờ là giờ gì?”. Bảo Sát bạch: “Giờ Tý”. Ngài lấy tay vén màn cửa sổ nhìn xem, nói: “Đến giờ ta đi”. Bảo Sát hỏi: “Tôn đức đi đến chỗ nào?”. Ngài nói kệ đáp:
Nguyên văn:
Nhất thiết pháp bất sinh
Nhất thiết pháp bất diệt
Nhược năng như thị giải
Chư Phật thường hiện tiền.
Hà khứ lai chi liễu dã.
Dịch thơ:
Tất cả pháp chẳng sinh
Tất cả pháp chẳng diệt
Nếu hay hiểu như thế
Chư Phật thường hiện tiền.
Nào có đến đi vậy.
Xong xuôi, Ngài bèn nằm như sư tử lặng lẽ mà tịch, đó là vào niên hiệu Hưng Long thứ 16 (1308), Ngài thọ năm mươi mốt tuổi.
Pháp Loa (sư tổ thứ hai của Trúc Lâm Yên Tử) theo lời di chúc của Ngài làm lễ hỏa táng, lượm ngọc cốt có năm màu để vào bình. Vua Anh Tông cùng đình thần đem long giá rước ngọc cốt về tôn thờ nơi Đức Lăng và xây tháp ở chùa Vân Yên trên núi Yên Tử, để hiệu là Huệ Quang Kim Tháp và dâng tôn hiệu là Đại Thánh Trần Triều Trúc Lâm Đầu-đà Tĩnh Tuệ Giác Hoàng Điều Ngự Tổ Phật.
Trí tuệ thiền Trúc Lâm.
Ban đầu Ngài xả bỏ hết danh-lợi-tình nhân thế, vào núi tu hành khổ hạnh, nhưng cuối cùng Ngài phát hiện ra, khổ hạnh lại là theo thái cực khác. Vậy nên Ngài đã theo con đường trung đạo, bỏ danh lợi tình, nhưng không ép xác tu khổ hạnh: “Đói bụng thì ăn mệt ngủ liền”.
Và khi khai ngộ, đắc Đạo, Ngài thấy xuất gia tu hành cũng chỉ là hình thức, thực chất tu luyện là tu cái tâm: “Trực chỉ nhân tâm, kiến tính thành Phật”. Do đó Ngài khuyên hậu thế chớ theo gương Ngài tìm chốn núi sâu rừng già, tầm sư học Đạo, vân du chân trời góc biển làm gì. Thay vào đó, hãy tu chính cái tâm của mình, tìm lại Phật tính, tìm lại bản tính Thiện nguyên sơ của mình mà thôi.
Ấy chính là:
Bỏ tâm danh lợi chẳng khổ hạnh,
Theo đường Trung đạo thuận theo duyên.
Tìm Phật đâu cần đi góc biển,
Tu tâm đoạn dục ấy là thiền.
P.V Thi sưu tầm, giới thiệu.