Nghi lễ Phật giáo trong đời sống tâm linh của người Việt (tham luận hội thảo KH “Nghi lễ Phật giáo Việt Nam).

       Đại biểu đọc tham luận tại hội thảo tổ chức tại TP. Hải Phòng.

       Trong đời sống tâm linh người Việt Nam tồn tại nhiều tôn giáo như đạo Phật, đạo Nho, đạo Lão (còn gọi là đạo thần tiên), đạo Thiên chúa, đạo Hồi, đạo Cao Đài, Hòa Hảo và các tín ngưỡng như thờ cúng tổ tiên, ông bà, người có công với dân với nước, thờ cúng thiên thần, nhân thần, nhiên thần (vật, hiện tượng thiên nhiên được thiêng hóa).
       Cụ thể, người Việt thờ cúng quốc tổ Lạc Long Quân, Hùng Vương, quốc Mẫu Âu Cơ, tổ tiên dòng họ, ông bà trong gia đình; thờ các tướng lĩnh, người hy sinh vì dân, vì nước trong cuộc chiến bảo vệ Tổ quốc như Hai Bà Trưng, Lê Chân, Ngô Quyền…; thờ các vị thần tứ bất tử (Phù Đổng Thiên Vương, Tản Viên sơn thánh, Chử Đồng Tử, Thánh mẫu Liễu Hạnh); thờ Tam tòa thánh mẫu (Đệ nhất Thượng thiên, đệ nhị Thượng ngàn, Đệ tam Thoải phủ). Các nhiên thần trong trí tưởng tượng như rồng, lân hay con vật có thật như rùa, phượng hoặc hiện tượng tự nhiên cũng được tôn thờ như tục thờ Tứ pháp (Pháp lôi – Sấm; Pháp Vũ – Mưa, Pháp Vân – Mây; Pháp điện – Chớp)…
1) Khái niệm nghi lễ Phật giáo và tầm quan trọng của nó:
       Trước hết chúng ta cần hiểu khái niệm nghi lễ là gì: Nghi lễ (gốc tiếng la tinh rite) gồm nhiều nghi thức (rituals) hành lễ hợp lại. Nghi có nghĩa là uy nghi, trang trọng, nghi cũng được hiểu là chuẩn mực, là tiêu chuẩn.
       Lễ là việc thực hiện các phép tắc, quy định trong đời sống xã hội và tôn giáo, tâm linh. Như vậy, nghi lễ được hiểu là nghi thức chuẩn mực khi tiến hành một hoạt động xã hội hay tâm linh, tín ngưỡng trang trọng.
       Nghi lễ có ý nghĩa rất rộng, bao hàm hành vi, thái độ, tín ngưỡng, văn hóa, ngôn ngữ, phong cách của con người và xã hội.
       Nghi lễ Phật giáo trong nghĩa hẹp là nghi thức hành lễ, tụng niệm, xưng dương tán thán Tam bảo, phục vụ việc độ sinh, độ tử của chúng sinh.
       Các tôn giáo đều có nghi lễ riêng, như tán, tụng, xướng, hoặc ứng phú Đạo tràng, cúng, cầu nguyện, tế bái, cầu hồn, trừ tà ma..v.v…gọi là nghi lễ tâm linh. Những nghi lễ này được thể hiện khi thì đơn giản, lúc thì khúc chiết, thâm trầm, khi thì cao siêu, linh diệu, được lồng trong một khung cảnh trang nghiêm đi liền với những phụ họa bằng nhạc khí như chuông, mõ, khánh, đàn, kèn, trống nhằm tạo nên hiệu quả tác động tới người dự nghe, ngõ hầu hoằng đạo. Vậy nên có thể nói nghi lễ là một trong những pháp môn hành đạo, phương tiện truyền giáo để cảm hóa lòng người, giác ngộ chúng sinh, tác động tới đấng tối cao hay quỷ, thần. Chính vì vậy, ngay từ khi du nhập vào Việt Nam, các tôn giáo như đạo Phật, đạo Lão, đạo Nho đều sử dụng các nghi lễ đặc thù để truyền tải nội dung giáo lý và tư tưởng của mình tới tín đồ. Trong đó, nhạc lễ khi thực hành nghi lễ là một phương tiện quan trọng tác động tới tâm lý, xúc cảm tín đồ bởi từ thời cổ đại người ta đã nhận thấy giá trị to lớn của âm nhạc đối với con người. Do đó các thầy tu, pháp sư, người tổ chức các hoạt động tôn giáo, tín ngưỡng và tâm linh đã sử dụng nhạc nghi lễ như là một phương tiện hỗ trợ cho việc thực hiện các nghi lễ và truyền tải thông điệp tới tín đồ, thần linh và người dự lễ.
       2) Nghi lễ Phật giáo Việt Nam trong mối tương quan với tín ngưỡng bản địa của dân tộc:
Đạo Phật Việt Nam là thành phần ngang hàng với các tôn giáo bản địa như đạo Lão, đạo Nho, đạo Thiên chúa, đạo Hồi và ngày nay vượt lên như một tôn giáo có sức ảnh hưởng lớn nhất trong đời sống tâm linh người Việt.
       Phật giáo truyền vào Việt Nam từ khoảng thế kỷ thứ 2 Tây lịch. Đến khoảng thế kỷ X, Phật giáo Việt Nam còn có sự dung hợp một cách chặt chẽ và rõ ràng cả 3 dòng Phật giáo: Thiền – Tịnh – Mật (Thiền tông, Tịnh tông, Mật tông). Trong 3 dòng này thì 2 dòng sau có vai trò và vị trí quan trọng trong nghi lễ của Phật giáo.
       Ngay từ khi du nhập, Nghi lễ Phật giáo luôn gắn liền với văn hóa dân tộc và sớm hòa nhập với tín ngưỡng bản địa. Giống như các tôn giáo khác, nghi lễ Phật giáo đều chịu ảnh hưởng của văn hóa dân tộc, từ nghi thức, văn phong trình tấu đến âm nhạc phụ họa đều mang hơi hướng, phong tục, tập quán Việt Nam.
       Tuy về mặt hình thức nghi lễ Phật giáo trong các chùa phần lớn mang sắc thái sinh hoạt của Trung Hoa nhưng nếu điểm qua những cuộc tế lễ thần linh tại các đình, chùa, đền, miếu như tại đền Hùng (Phú Thọ), chùa Keo (Thái Bình), cung phụng Thánh Tổ (Hội Gióng Sóc Sơn)… thì chúng ta có thể nhận thấy sự tương nhập, tương kính giữa Phật giáo với tín ngưỡng dân gian. Bốn ngôi chùa mang tên Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện ở Bắc Ninh là một điển hình cụ thể nhất. Phật giáo vừa du nhập là hài hòa ngay với nếp sống nông nghiệp và tín ngưỡng thờ các thần mây, mưa, sấm, chớp cho mùa màng được tốt tươi. Người Phật tử Việt Nam ngoài việc thờ Phật là đấng Giác ngộ, họ còn tế lễ Hùng Vương, Đức Thánh Trần, cúng bái Thành Hoàng… Qua 2000 năm lịch sử, Đạo Phật và tín ngưỡng dân tộc Việt Nam luôn hiện hữu song hành và trở thành một thể thống nhất không thể tách rời.
       Cũng như mọi loại hình tôn giáo tín ngưỡng du nhập như đạo Lão, đạo Nho, đạo Thiên chúa, trong sự vận động để thích ứng với văn hóa dân tộc, Phật giáo đã có những bước chuyển mình nhằm hội nhập với tín ngưỡng bản địa.
       Sẽ không lấy làm lạ khi nhiều ngôi chùa Việt lại phối thờ cả các vị thánh thần ngoài hệ thống chính điện Tam bảo, như việc thờ Vua cha Ngọc Hoàng, Nam Tào, Bắc Đẩu hay Tam vị Thánh Mẫu của tín ngưỡng Tứ phủ.
       Ngược lại, những tín ngưỡng bản địa cũng đã lồng ghép vai trò vị trí của chư Phật vào điện thần của mình như một sự dung hòa từ cả hai phía trong mối quan hệ thích nghi sinh tồn. Thế nên trong các đình, đền, phủ hay điện thờ tư gia, song song với việc thờ thánh, thần, người ta cũng thờ Phật
       Hiện tượng lồng ghép đa tín ngưỡng đó được xem như một nét đặc trưng riêng ở nước ta.
       Điều đặc biệt, trên con đường truyền bá giáo lý của mình, Phật giáo đã tận dụng tối đa thế mạnh của nghệ thuật âm nhạc. Đây được xem như một sự khôn ngoan của những nhà truyền giáo nhằm tạo sức hấp dẫn trong việc phổ biến giáo lý, hướng tới cái đích thu phục lòng người. Bên cạnh đó, âm nhạc nghi lễ tôn giáo tâm linh Việt còn mang giá trị nghệ thuật khi lay động xúc cảm người nghe, tác động sâu sắc tới niềm tin tôn giáo, tinh thần của tín đồ.
       Do sự hội nhập với tín ngưỡng bản địa nên ta sẽ thấy những yếu tố hỗn hợp,pha trộn đan xen trong các nghi thức của Phật giáo Việt Nam với các nghi thức tín ngưỡng khác. Đó chính là sự giao thoa, dung hòa tín ngưỡng giữa một bên là Phật giáo với một bên là Lão giáo, Nho giáo và những tín ngưỡng Công đồng Tứ phủ, thờ cúng tổ tiên… mang đậm bản sắc Việt (mà hầu như không có ảnh hưởng của Thiên chúa giáo Phương Tây).
       Trải qua thời gian, nhiều khoa cúng, sách cúng nhà chùa đã được chia sẻ với các tín ngưỡng khác, dần dà được coi như một thứ tài sản chung của cả cộng đồng.
       Giữa các thầy cúng, cung văn ngoài chùa với các nhà sư đã hình thành một mối quan hệ khăng khít và gắn bó.
       Thực tế có hiện tượng một người vừa có vai trò thầy cúng coi sóc mọi việc cúng bái ở các tư gia, vừa kiêm nhiệm vai cung văn hành lễ ở điện thần Tứ phủ, lại vừa có thể tham gia vào các lễ thức lớn của Phật giáo cùng các nhà sư ở hệ thống chùa chiền. Ngược lại, các nhà sư cũng có thể tham gia vào những nghi lễ tín ngưỡng Tứ phủ Công đồng ở các hệ thống đền, phủ, miếu, điện hay các lễ cúng ở tư gia…. Đó chính là khả năng thực hành đa nghi lễ của những người thuộc các tôn giáo, tín ngưỡng khác nhau tuy không phải là phổ biến. Sự dung hòa đạt đến mức, trong nhiều khoa cúng ở nhà chùa, các thầy cúng ngoài dân gian cũng có thể đảm nhiệm thay các vị sư trong chùa. Hơn thế nữa, khi giới cao tăng không may để thất truyền những tinh hoa nghệ thuật nơi cửa thiền thì các nhà sư trẻ có thể thụ giáo lại môn pháp đó ở lò đào tạo của các thầy cúng ngoài dân gian.
       Về âm nhạc, có sự dung hòa của thanh nhạc và khí nhạc trong các tôn giáo, tín ngưỡng ở Việt Nam:
       Nhiều nhạc cụ – pháp khí để hành lễ của các tôn giáo cũng giống nhau. Về nhạc khí, ngoài một số dụng cụ đặc thù như mõ gia trì, chuông gia trì, đẩu, mộc bảng, thì trong Phật giáo cũng sử dụng các nhạc khí truyền thống dân tộc như đàn nhị, đàn nguyệt, kèn, trống phách mà dàn nhạc lễ dân gian thường dùng.
       Ngoài các nhạc cụ nghi lễ này, các dàn nhạc lễ dân tộc như Nhạc Bát Âm ở Miền Bắc, Đại Nhạc, Tiểu Nhạc ở Miền Trung, và Nhạc Lễ ở Miền Nam cũng được sử dụng trong các nghi lễ lớn của Phật giáo. Các dàn nhạc này gồm cả hai bộ phận Văn và Võ. Bộ Văn gồm dàn dây cho làn điệu, bộ gõ gồm các nhạc khí đánh gõ, cho tiết tấu và âm sắc.
       Còn bài bản thì nhạc lễ dùng trong Phật giáo giống như nhạc lễ dùng trong cung đình và ngoài dân gian, ngoài một vài bài bản đặc biệt như bài “Trống bát nhã”.
       Thang âm điệu thức của âm nhạc Phật giáo và tín ngưỡng dân gian hầu như giống nhau hoàn toàn, ngoại trừ tiết tấu trong các bài tán.
3) Giá trị của âm nhạc Phật giáo trong việc thực hành nghi lễ.
       Trong quá trình hội nhập và phát triển cùng văn hóa nghệ thuật dân tộc, Phật giáo Việt Nam đã khai thác tối đa hệ thống âm điệu của kho tàng dân ca dân nhạc, để hình thành một phương pháp âm nhạc riêng, ngõ hầu thuyết phục, thu hút đông đảo Phật tử đến với giáo lý, niềm tin nơi cửa Phật.
       Có thể nói, theo dòng lịch sử, các vị cao tăng nơi cửa thiền đã xây dựng thành công một thể loại âm nhạc đặc biệt gọi là nhạc nghi lễ Phật giáo. Bên cạnh những lời thuyết giảng, đạo Phật có cả một hệ thống âm điệu, có giá trị nghệ thuật tương đương như những điệu nhạc độc lập với kết cấu khá chặt chẽ, phong phú và đa dạng. Những âm điệu đó chuyên dùng để chuyển tải một kho tàng kinh kệ đồ sộ, những giáo lý nhà Phật với sự phụ trợ của các pháp khí- nhạc khí như chuông, mõ, khánh, trống…
       Nhìn từ góc độ nghệ thuật, nhạc Phật giáo là một thể loại có kho tàng “lời ca” đồ sộ bậc nhất trong nền âm nhạc cổ truyền Việt Nam mà không một tôn giáo, tín ngưỡng nào có được.
       Nói chung, đại đa số kinh sách đều dùng thể văn xuôi, ngoại trừ trường hợp các bài Kệ dùng thơ 7 từ. Ngoài triết lý tôn giáo thần bí, một bộ phận không nhỏ trong hệ thống kinh kệ đều ở dạng gốc là chữ Phạn được dịch sang chữ Hán. Thế nên “lời ca” trong nhạc Phật cũng thuộc dạng khó hiểu nhất. Điều đặc biệt, cả người thực hành nghệ thuật lẫn người thưởng thức chúng dù không thể hiểu hết ngữ nghĩa của “lời ca” nhưng vẫn hứng thú với một niềm đam mê cao cả.
       Với tính thực hành nghi lễ tín ngưỡng, âm nhạc Phật giáo có một đối tượng khán giả riêng – đó chính là những Phật tử. Trong niềm tin thiêng liêng đối với tôn giáo mà mình tôn thờ, những khán giả – Phật tử bao giờ cũng nghe nhạc Phật với một tâm thức rất đặc biệt. Không chỉ thưởng thức những gì mà các nhà sư, thầy cúng (tức các nhạc công, ca sĩ nhạc Phật) diễn xướng, trên thực tế, cái mà họ hướng tới lại là đấng linh thiêng, là đức Phật cùng chư vị thánh thần ở trên cao.
       Nếu nhìn âm nhạc Phật giáo như một bộ môn nghệ thuật, sẽ thấy các nhạc công, ca sĩ, vũ công ở đây được đào tạo có hệ thống với mối quan hệ mang tính chuyên nghiệp giữa thầy và trò (truyền nghề bằng cách cầm tay, truyền khẩu).
       Trong chốn tu hành, khả năng tụng niệm cũng như trình độ trống phách… là một trong những sự thể hiện đẳng cấp của giới cao tăng.
       Sự rèn luyện, thậm chí khổ luyện là có tính bắt buộc thường xuyên. Đó là quy định của giới luật nhà Phật. Có trường hợp, các nhà sư trẻ được sư trụ trì bắt luyện thanh theo một phương pháp khá độc đáo là cúi gập người, cắm đầu vào chum nước lớn để hét to, tập nén hơi trên xoang mũi. Nén hơi trên xoang mũi là kỹ thuật hát luôn đi liền với lối khẩu hình khép hờ, tạo hiệu quả như thể âm thanh chỉ gói gọn trong khoang miệng, nghe sắc nét với độ vang đều đều không đổi. Hát xướng kiểu đó, các nhà sư sẽ tiết kiệm được hơi, mới mong đủ sức để có thể đảm bảo thời lượng của công việc tụng niệm- xướng lễ thường nhật hay một đàn cúng lớn kéo dài.
       Nói thế để thấy được sự luyện rèn kỹ năng tụng- niệm, đọc- xướng trong giới nhà chùa công phu như thế nào. Thời xưa, nếu không thông thạo “thập bát ban” kinh kệ, trống phách, chuông mõ, hành lễ… thì khó có thể trở thành một cao tăng đích thực. Nếu ai đã từng tham dự một khoa cúng nhà Phật, rồi xem các vị sư thực hành nghệ thuật múa Lục cúng, múa Thập cúng, hay nhìn vị Pháp chủ trên thượng đàn dùng đôi tay thiện nghệ thể hiện Hoa đàn ấn quyết Mông Sơn Chẩn Tế thì không khỏi sửng sốt trước sự điêu luyện mang tính nhà nghề ở trình độ cao của họ.
       Trong các hình thức nghi lễ cúng bái của Phật giáo, các Khoa cúng (còn gọi là ứng phó) được xem là nghi lễ lớn nhất, quan trọng nhất. Có nhiều loại khoa cúng như Khoa cúng Phật, Khoa cúng trai đàn, Khoa cúng Tiếp linh, Khoa cúng Triệu linh, Khoa Phát tấu… Tất cả đều có một mục đích chung là phần tịnh độ cho âm hồn giải thoát, nhân sự bình an.
       Khoa cúng là hình thức nghi lễ bao chứa toàn bộ mọi lối giọng nhạc Phật giáo đã trình bày. Còn thường nhật sáng – trưa – chiều- tối, các nhà sư chỉ dùng các giọng Xướng lễ, Tụng, Chú.
       Mặt khác, cũng xin nói thêm, trong chùa chiền cũng như ngoài nhân gian, chỉ nam giới mới có thể đảm nhiệm các khoa cúng. Như vậy, giới các nhà sư nữ chỉ được thực hành 3 giọng Xướng lễ, Tụng và Chú. Điều đó cũng có nghĩa đây là 3 lối giọng được dùng nhiều nhất trong hệ thống âm nhạc Phật giáo.
       Bên cạnh đội ngũ các nhà sư, thầy cúng thực hành diễn xướng nhạc Phật giáo, cũng cần phải kể đến giới các vãi già. Họ là thành phần tham dự luôn chiếm đa số trong các hoạt động lễ thức nơi cửa Phật. Trong phạm vi hệ thống chùa chiền vùng đồng bằng và trung du Bắc Bộ, các vãi cũng có một làn điệu âm nhạc riêng, thường dùng trong các ngày lễ ở chùa chiền, gọi là giọng Kể hạnh. Đây là lối ngâm vịnh diễn xướng tập thể, được xem là “tài sản” riêng của giới các vãi. Kể hạnh có âm hưởng buồn man mác, dùng thơ lục bát hay song thất lục bát.
       Trong dịp hội chùa, Kể hạnh được các bà, các cô dùng để ca tụng sự tích, công lao, đức hạnh của các vị Phật, các vị sư tổ như Trúc Lâm Tam Tổ, Từ Đạo Hạnh, Nguyễn Minh Không..v.v..
       Ngoài môi trường chùa chiền, Kể hạnh cũng xuất hiện trong các đám tang người có tuổi, thường dùng để kể công lao cha mẹ. Ấn tượng nhất là màn Kể hạnh lúc đưa linh cữu ra nghĩa địa. Đoàn các bà vãi mặc áo đi chùa nối đuôi hàng một, nâng trên đầu một băng vải rộng màu trắng (hoặc vàng), gọi là đội Kiều. Đó biểu tượng một cây cầu tượng trưng, được bắc từ trần thế đưa đường cho vong linh người đã khuất đến cõi thiên thu. Các già đội Kiều đi trước quan tài, vừa đi vừa Kể hạnh cầu siêu cho vong linh người đã khuất.
       Trong hệ thống âm nhạc Phật giáo, khí nhạc luôn đóng vai trò hỗ trợ đắc lực cho các giọng đọc – xướng trong thực hành nghi lễ. Theo quan niệm Phật giáo, toàn bộ nhạc khí dùng trong giới nhà chùa đều được gọi chung là pháp bảo.
       Về tổng thể, các nhạc khí Phật giáo chủ yếu thuộc dạng nhạc cụ tiết tấu. Ở đây, với bản chất là nhạc lễ tôn giáo, tín ngưỡng nên những nhạc cụ toàn thân vang chất liệu kim khí chiếm ưu thế. Theo quan niệm cổ xưa, kim khí là “chất dẫn linh” không thể thiếu giúp người trần có thể thông thiên với thế giới thần linh. Bởi vậy, sẽ thấy sự có mặt của nhiều kiểu dạng, chủng loại chuông lớn bé khác nhau. Các loại chuông lớn treo trên xà, cột, chuông nhỡ, chuông nhỏ đặt trên giá bện vải.
       Bên cạnh đó là các loại tiu, cảnh, thanh la, kiểng, não bạt. Trong đó, dễ nhận thấy cảnh và thanh la cũng là những nhạc cụ được sử dụng trong hát Chầu Văn hầu thánh. Độc đáo nhất phải kể đến cái kiểng, cấu tạo dạng đĩa đồng hình tròn đường kính chừng 20-25cm, một mặt nhẵn phẳng, một mặt có vành chỉ bao quanh, giữa có núm lồi nhỏ, các nghệ nhân gọi là “tay mặt”.
       Kiểng được treo phương thẳng đứng trên giá gỗ, kích âm bằng chiếc búa gỗ nhỏ, gõ vào núm. Trong thực hành đàn pháp, kiểng được sử dụng hạn chế. Khi bắt đầu khoa cúng, một nhà sư dùng kiểng dẫn đầu đoàn các thầy cúng rước vị sư trụ trì từ nhà thờ tổ lên đàn cúng hành lễ, vừa đi vừa thong thả đánh kiểng, cứ 7 bước chân lại đánh 1 tiếng.
       Ngoài ra, khi cúng phật thánh, lúc đọc sớ nhắc đến tên hiệu các vị tôn thần, chư phật, người ta cũng thường gõ kèm vài tiếng kiểng để át đi, sao cho người xung quanh không nghe rõ tiếng húy tối linh. Có thể dùng chuông thay kiểng trong trường hợp này.
       Sau chuông là các loại mõ gỗ lớn bé, cũng được đặt trên giá đỡ là một vòng vải bện hình tròn.Chuông và mõ là cặp nhạc khí có vai trò chủ chốt, được sử dụng nhiều nhất trong mọi hình thức lễ bái của Phật giáo. Nếu xét ở góc độ diễn xướng, mõ để giữ nhịp câu hát, còn chuông thì để điểm báo các đoạn phân ngắt. Còn nếu xem xét ở góc độ biểu tượng tôn giáo thì cách đánh chuông mõ lại được hiểu theo một nghĩa khác, thường gắn với triết lý thức tỉnh sự tu hành.
       Bên cạnh chuông mõ, còn có các loại trống lớn, trống nhỡ, trống con và trống cơm, thường chỉ dùng trong các đàn lễ lớn và biên chế như thế nào là tùy theo nhu cầu hành lễ từng nơi. Trống lớn dùng trong nhà chùa cũng có những phép tắc riêng mang tính biểu tượng triết lý tôn giáo. Nhưng với trống nhỡ và trống nhỏ thì chủ yếu đề cao tính nghệ thuật. Lúc tăng cường biên chế dàn nhạc, người ta cũng chơi thêm trống cơm tạo độ dày cho âm sắc.
       4) Mối tương quan qua lại giữa nghi thức Phật giáo với tôn giáo tín ngưỡng bản địa:
       Trong quá trình hoằng pháp, Phật giáo sử dụng rất nhiều lễ nghi của Lão – Nho, như học trò lễ và xướng lễ cúng là của Nho gia dành cho lễ cúng tế đình thần, nhưng các sư muốn lễ cúng Tổ trang nghiêm nên chư Tăng cũng mặc đồ lễ, đàn trình dâng lục cúng .v.v …
       Nhạc khí mà dàn nhạc Phật giáo sử dụng cũng giống dàn nhạc trong tín ngưỡng dân gian. Trong các lễ hội lớn của Phật giáo luôn sử dụng dàn nhạc lễ trong dân gian. Ví dụ theo miền Trung là hai dàn đại nhạc và tiểu nhạc trong cung đình thu nhỏ lại. Còn theo truyền thống miền Nam, thì dàn nhạc lễ được dùng trong các nghi lễ với 2 nhóm gọi là phe Văn gồm có 4 cây đờn cò (đờn nhị): cò chính, cò lòn, cò gáo tre, cò gáo dừa và trống bảng cổ. Phe Võ có cặp trống nhạc (trống Văn, trống Võ, hay còn gọi trống đực, trống cái), đẩu bạt (hay xáng bạt), một cái đẩu nhỏ (có khi là thanh la nhỏ) và chập bạt (loại chập choã nhỏ mà một chiếc để nằm trên gối tròn, một chiếc cầm tay gõ xuống chiếc nằm), một mõ sừng trâu, một cái bồng, và cây kèn trung (là loại kèn bầu, không phải kèn đồng). Ngày nay, dàn nhạc lễ được giản dị hoá nên nhiều khi chỉ có một nhóm tổng hợp gồm một cây kèn trung, hai cây đàn (đàn cò và đàn gáo), một cây đàn kìm (đàn nguyệt), có khi dùng đàn tranh và đàn guitar phím lõm (như trong dàn nhạc tài tử cải lương), cặp trống nhạc, mõ sừng trâu và đẩu bạt.
       Về thanh nhạc của nghi lễ Phật giáo: Nghi lễ Phật giáo áp dụng nhiều phong cách âm nhạc nghi lễ dân gian mỗi vùng vào việc thực hành lễ nghi của vùng mình. Một số thang âm điệu thức trong âm nhạc dân gian truyền thống được các nhà sư sử dụng để đặt những bài tán. Cách vận hành giai điệu trong âm nhạc truyền thống cũng được các nhà sư áp dụng để làm cho phong cách tán tụng được phong phú hơn.
       Ngược lại tín ngưỡng khác cũng vay mượn những giá trị độc đáo của nghi thức nhạc lễ Phật giáo như các thày cúng cũng bắt chước kỹ thuật nén hơi bụng khi đọc văn cúng để tăng âm sắc tác động tới người nghe.
       Nhạc Phật giáo có phong cách Thài và hơi Thiền được các nhạc công dân gian áp dụng trong nghi lễ để tăng hiệu quả, tạo tâm bình an cho người nghe.
       Ngoài ra, điệu múa cung đình “Lục cúng hoa đăng” (múa đèn) của cung đình hay trong nghi thức múa cửa đình chính là phỏng theo điệu múa lục cúng trong Phật giáo khi dâng hương, đăng, hoa, trà, quả, thực.
       Điều đặc biệt, do sự hội nhập với tín ngưỡng bản địa nên về mặt tổng thể, sẽ thấy những yếu tố hỗn hợp, pha trộn đan xen trong các nghi thức của Phật giáo Việt Nam với các nghi thức tín ngưỡng khác. Đó chính là sự giao thoa, dung hòa nghệ thuật nghi lễ giữa một bên là Phật giáo, một bên là những tín ngưỡng Công đồng Tứ phủ với thờ cúng tổ tiên (đạo Nho)…bắt ma, trừ tà, yểm bùa chú (đạo Lão) mang đậm bản sắc Việt, cụ thể:
       Trải qua thời gian, nhiều khoa cúng, sách cúng nhà chùa đã được chia sẻ với các tín ngưỡng khác, dần dà được coi như một thứ tài sản chung của cả cộng đồng.
       Giữa các thầy cúng, cung văn ngoài chùa với các nhà sư đã hình thành một mối quan hệ khăng khít và gắn bó. Ở đây, sẽ gặp hiện tượng một người vừa có vai trò ông thầy cúng coi sóc mọi việc cúng bái ở các tư gia, vừa kiêm nhiệm vai cung văn hành lễ ở điện thần Tứ phủ, lại vừa có thể tham gia vào các lễ thức lớn của Phật giáo cùng các nhà sư ở hệ thống chùa chiền.
       Ngược lại, các nhà sư cũng có thể tham gia vào những nghi lễ tín ngưỡng Tứ phủ Công đồng ở các hệ thống đền, phủ, miếu, điện hay các lễ cúng ở tư gia… với vai trò thực hành tích cực.
       Sự dung hòa đạt đến mức, trong nhiều khoa cúng ở nhà chùa, các thầy cúng ngoài dân gian cũng có thể đảm nhiệm thay các vị sư trong chùa. Hơn thế nữa, khi giới cao tăng không may để thất truyền những tinh hoa nghệ thuật nơi cửa thiền thì các nhà sư trẻ có thể thụ giáo lại môn pháp đó ở lò đào tạo của các thầy cúng ngoài dân gian.
       5) Một vài kiến nghị:
       Trong thời đại ngày nay, do đời sống thực dụng của con người mà không ít nghi lễ Phật giáo đã bị đơn giản hóa hay lai tạp, không còn giữ được nguyên dạng như ban đầu thủa các liệt vị tổ sư sáng tạo ra nó.
       Trong quá trình hội nhập, Phật giáo nói chung, nghi lễ Phật giáo Việt Nam nói riêng đã có sự tiếp thu, chọn lọc những cái hay cái đẹp của nhiều nước (Chủ yếu là Ấn Độ, Trung Hoa). Vấn đề quan tâm hiện nay là nghi lễ Phật giáo Việt Nam cần phải giữ được hồn cốt, bản sắc văn hóa của dân tộc và Phật giáo Việt Nam, nhất là phải làm nổi rõ yếu tố lễ nghi đó là của Phật giáo Việt Nam từ pháp cụ, pháp phục, âm điệu, cách thức hành lễ …. Tuy nhiên, hiện nay một thực trạng đang xảy ra là không ít vị sư, chức sắc Phật giáo khi thực hành nghi lễ không giữ được bản sắc nghi lễ Phật giáo nước nhà. Một số pháp cụ, pháp phục, lời văn cũng đã bị biến tướng, làm mất đi bản sắc truyền thống của Phật giáo Việt Nam. Một ví dụ cụ thể:
       Dù đã có những quy ước cụ thể của Ban Nghi lễ Trung ương (TW) Giáo hội Phật giáo Việt Nam (VN), thế nhưng tại những trai đàn hay các khóa lễ đã xuất hiện một số tăng sĩ dù tuổi đạo còn nhỏ vẫn khoác Đại Y Hồng, đội mũ Hiệp Chưởng một cách tùy tiện.
       Ngoài ra, vẫn còn có một số tăng sĩ đã sáng tác ra những giai điệu ca từ theo kiểu ngẫu hứng, thậm chí sáng tác cả thơ ca đưa vào nghi lễ để làm tăng thêm phần bi ai trong những khóa lễ cầu siêu. Điều này làm mất đi tính truyền thống trong văn hóa nghi lễ vốn tồn tại hàng ngàn năm trong lễ nhạc Phật giáo Việt Nam.
       Thời nay nghi thức Phật giáo đã bị giản dị hóa ở nơi này, nơi khác. “Đáng lưu ý là những thay đổi trong những dàn nhạc lễ miền Nam với việc sử dụng hai nhạc khí nước ngoài là guitar phím lõm và organ để phụ họa theo những bài tán trong các lễ hội. Đờn guitar phím lõm, vốn thông dụng trong những dàn nhạc tài tử cải lương, tuy đã được Việt Nam hóa nhưng âm sắc sôi động của nó không mang lại không khí trang nghiêm cần thiết trong lễ hội tôn giáo. Riêng đờn organ còn làm cho bản sắc dân tộc bị lu mờ hơn nữa” (GS.TS Trần Văn Khê: Âm nhạc trong nghi lễ Phật giáo và âm nhạc dân tộc).
       Tất cả những biến tướng trong nghi lễ, nhạc lễ Phật giáo nói trên nếu không được chấn chỉnh theo pháp quy sẽ dẫn đến sự tùy tiện, lộn xộn ngày càng tăng trong thực hành hoằng pháp, cứu độ. Bởi vậy Ban nghi lễ TW giáo hội Phật giáo VN cần có chế tài nghiêm khắc nhằm lập lại quy củ truyền thống của Phật giáo nước nhà.
       Nhìn rộng ra nước ngoài, nhạc lễ Phật giáo Trung Quốc đã và đang chuyển hóa nhằm thu hút tín đồ trẻ tuổi. Như Hoà Thượng Tinh Vân, chủ trương đưa yếu tố âm nhạc phương Tây vào lễ nhạc Phật giáo để làm âm nhạc Phật giáo sinh động và phù hợp với lớp trẻ hơn. Hoà Thượng Tinh Vân đã thành công vì Hoà Thượng đã tổ chức nhiều buổi biểu diễn âm nhạc Phật giáo ở trong nước và nước ngoài, như Hồng Kông, Nhật Bản, Châu Âu và Đông Nam Châu Á…thu hút rất đông người dự nghe. Đặc biệt có nhiều album âm nhạc Phật giáo đang phát hành, nhất là album Đại Bi Chú và Lục Độ Mẫu Tâm Chú đã đạt giải nghệ thuật. Đáng chú ý, nhiều chùa ở nước ta cũng phát tán những album này. Chúng tuy dễ lọt tai người nghe bởi nhạc khí và thanh khí du dương nhưng lại làm mất đi ít nhiều không khí trang nghiêm, thánh thiện. Cần nhấn mạnh, Phật giáo cổ không chủ trương sử dụng những nhạc khí dây bởi tần số dao động cao của chúng thường mê hoặc người nghe trái với chủ trương loại bỏ cái “si” trong con người.
       Nếu trường hợp như thế này xảy ra ở VN thì không biết Giáo hội Phật giáo có chủ trương tán đồng hay không?
       Trong tổ chức Giáo hội Phật giáo Việt Nam hiện có nhiều hệ phái, mỗi hệ phái đều có nghi thức hành lễ và pháp phục, lễ phục mang màu sắc riêng của hệ phái đó. Thật ra tình trạng này là do yếu tố khách quan, xét cho kỹ thì vẫn không ảnh hưởng gì lớn đến sự nghiệp tu hành và hoằng pháp. Tuy nhiên, bên cạnh những nét riêng độc đáo của nghi lễ Phật giáo từng vùng miền, từng hệ phái, thiết nghĩ Ban Nghi Lễ TW của Giáo hội cần soạn thảo một nghi thức thống nhất chung cho mỗi vùng miền và hệ phái nhằm làm cho các ngày Đại lễ mang tính quy mô của Phật giáo được long trọng, đồng bộ, tạo nét đẹp thẩm mỹ và không khí trang nghiêm, ấn tượng.
       Kết luận: Trải qua hàng nghìn năm du nhập và phát triển ở Việt Nam, Phật giáo đã ăn sâu bén rễ trong đời sống tâm linh người Việt và dung hòa cùng các tôn giáo ngoại nhập và tín ngưỡng bản địa để cùng tồn tại. Phật giáo ngày càng trở thành một tôn giáo có sức thu hút đông đảo nhất người dân Việt. Mặt khác, các tôn giáo, tín ngưỡng ở Việt Nam đã vận dụng những cái hay, cái đẹp của nhau để áp dụng vào nghi lễ của mình nhằm thu hút đông đảo tín đồ mà không có sự bài xích lẫn nhau.
       Có thể nói sự hòa đồng (hay đồng nguyên) tôn giáo, tín ngưỡng là đặc điểm đáng chú ý nhất trong bản sắc văn hóa tâm linh của dân tộc Việt Nam.

(Nguồn: Nghi lễ Phật giáo trong đời sống tâm linh của người Việt (tham luận hội thảo KH “Kế thừa, bảo tồn và phát huy truyền thống Nghi lễ Phật giáo trong thời kỳ hội nhập”/Phạm Văn Thi (CLB. Hải Phòng học)//Tài liệu hội thảo Nghi lễ Phật giáo toàn quốc năm 2022 – TP. Hải Phòng, ngày 01-02 tháng 7 năm 2022; Tr. 244-253).

Bài viết khác

Tác giả: Hải Phòng Học