Cụm Di tích lịch sử đền – chùa Mõ ở xã Ngũ Phúc huyện Kiến Thụy.

Đền – chùa Mõ (Hồng Phúc tự).

          Đền Mõ (tên dân gian) nằm trong quần thể di tích đền – chùa Mõ, thuộc thôn Nghi Dương, xã Ngũ Phúc, huyện Kiến Thụy, TP. Hải Phòng. Đền Mõ thờ Quỳnh Trân công chúa (Thiên Thụy công chúa), người đã có công khai hóa mảnh đất này. Còn chùa Mõ (tên chữ Hồng Phúc Tự) là ngôi chùa xưa do Công chúa lập nên và tu tập ở đây.
          Trần Quỳnh Trân (? – 1308) là con vua Trần Thánh Tông – ông vua thứ hai nhà Trần và cung phi Vũ Thị Ngọc Lan. Trần Quỳnh Trân cũng là chị ruột của vua Trần Nhân Tông. Do được sắc phong là Thiên Thụy công chúa nên sử chép về bà đều chép là Thiên Thụy. Bà là con trưởng của Vua nên cũng thường được gọi là Thái Trưởng công chúa Thiên Thụy.
          Cụm di tích đền-chùa Mõ nằm cách trung tâm huyện khoảng 4 km, sát ngay bên đường quốc lộ. Đền Mõ là một công trình kiến trúc nghệ thuật cổ, một di tích lịch sử văn hóa thờ Công chúa Thiên Thụy, người có công với quê hương, đất nước và đã được các triều đại nhà nước phong kiến trao 12 bản sắc phong. Năm 1991 cụm Di tích đền – chùa Mõ được Bộ Văn hóa – Thông tin trao bằng công nhận là Di tích Lịch sử Văn hóa cấp Quốc gia.
          Khu di tích này không chỉ nổi tiếng về giai thoại và sự linh thiêng mà còn thu hút đông đảo mọi người đến chiêm bái, thắp hương vì sức cuốn hút của những di sản hàng trăm năm tuổi như ngôi đền và cây gạo cổ thụ hơn 700 năm tuổi, tương truyền là do công chúa Thiên Thụy trồng. Trong quần thể di tích Đền – Chùa Mõ cây gạo này đã có tuổi 736 năm (được trồng từ năm Giáp Thân – 1284) và được Hội bảo vệ thiên nhiên và môi trường Việt Nam công nhận là Cây di sản Việt Nam. Nó cũng là cây Di sản đầu tiên tại Hải Phòng được xác lập kỷ lục: “Cây gạo cổ thụ nhiều năm tuổi nhất Việt Nam” vào ngày 04/03/2012.
          Tại đền Mõ hiện có Ngọc phả kể lại lai lịch ngôi đền cùng xuất thân của công chúa Trần Quỳnh Trân.

Đền Mõ thờ công chúa Quỳnh Trân.

          Theo “Ngọc phả chép về vị thượng đẳng thần triều Trần là Ả Lương Thiên Thụy Quỳnh Trân”- tài liệu nói về lai lịch ra đời đền Mõ thì “cha của công chúa Quỳnh Trân là Trần Thánh Tông. Năm 1279, Thượng Hoàng Trần Thánh Tông nhường ngôi cho con trai (là Trần Nhân Tông), muốn gả chồng cho con gái nhưng công chúa không chịu, chỉ muốn xuất gia thờ Phật. Trải qua sóng gió hoàng triều, công chúa xin Thượng hoàng cho đi tìm nơi lập chùa tu tập. Thượng Hoàng bằng lòng, cho phép đến thăm thú các nơi trong nước xem nơi nào có thắng tích thì dựng chùa. Khi đi qua xã Nghi Dương, huyện Nghi Dương, phủ Kinh Môn (xã Ngũ Phúc, huyện Kiến Thụy ngày nay), thấy địa thế đất này giống như con chim đang bay, núi non, sóng nước mênh mông, phong cảnh thanh u, quả là cảnh cực lạc, nên từ năm 1284 công chúa làm am nhỏ, ngày đêm hương đèn thờ Phật. Sau đó, công chúa mở rộng chùa, tạc tượng, đúc chuông, khai khẩn ruộng vườn, cấp phát tiền cho nhiều người cày cấy. Từ đấy dân Nghi Dương ngày càng no đủ, trở thành một làng giàu có. Do nhiều năm chăm nghiệp nông trang nên điền sản ngày càng nhiều, việc trông nom nô bộc cai quản khó biết đầy đủ, công chúa Quỳnh Trân dựng một cái quán ở cạnh ấp bảo nô bộc rằng: “Các người nghe hiệu lệnh của ta bằng tiếng mõ để đi làm hay về nghỉ. Nếu trong ngày hễ nghe tiếng mõ ở chùa thì về ăn uống, nếu nghe tiếng mõ ở quán thì có công việc. Nô bộc vâng lệnh, hàng ngày cứ theo lệnh mà làm. Ngay cả khi nạn cướp trộm xảy ra, tiếng mõ dồn dập cũng là hiệu lệnh tập họp khẩn cấp của dân làng”. Từ đó mọi người truyền ngôn gọi là chùa là “chùa Mõ”, “Quán Mõ”. Sau này dân sở tại lập đền thờ Thiên Thụy công chúa cạnh chùa cũng gọi là đền Mõ.
          Ngọc phả viết tiếp “với các việc nông trang khác, công chúa đều tính toán đầy đủ: dựng gò đất để xem thời tiết, dựng nhà tại cánh đồng để làm kho chứa giống má, nông cụ, đào một giếng nước mạch rất trong cho người có nước uống lúc mùa hè nóng bức. Một hôm trẻ chăn trâu khát nước không biết xin ở đâu, chúng rủ nhau vào chùa xin nước. Công chúa bảo các cháu thi vật xem thua được thế nào sẽ xin trời làm mưa cho nước. Bọn trẻ vâng lời, đến trước thềm nắm tay thi vật. Công chúa vui mừng, ban phép thần thông nên trời đổ mưa xuống”.
          Dân sở tại kể rằng những linh nghiệm từ thời xa xưa vẫn còn lưu truyền đến ngày nay. Người ta cho biết, hàng năm, lễ hội truyền thống đền Mõ diễn ra từ ngày 12 đến 14/2 âm lịch. Vào cuối ngày khai hội, bao giờ trời cũng luôn đổ mưa dù trước đó nắng chang chang. Và không nơi đâu có tục lệ cầu mưa độc đáo như nơi đây. Xưa, mỗi khi trời hạn hán, người dân ở xã Ngũ Phúc lại chọn ngày 12-2 âm lịch hò nhau khênh long đình bát biểu và bài vị của vị phúc thần (Công chúa Thiên Thụy) được thờ trong đền ra đàn cầu mưa mà phơi nắng. Mục đích chính là để thần thấu hiểu nỗi khổ vì hạn hán của trăm họ mà ban mưa. Thật lạ, năm nào cũng vậy, nhanh thì vài giờ sau, chậm thì dăm ba hôm kể từ khi cầu đảo, thể nào trời cũng mưa. Không mưa to thì mưa bé, dù trước đó chẳng có dấu hiệu báo trước của mưa.
          Dân trong làng và du khách thường đến đây để vãn cảnh, cầu khấn mong cho mưa thuận gió hòa, nhà nhà no đủ, làm ăn phát đạt. Khu Di tích lịch sử đền Mõ trải qua nhiều lần trùng tu tôn tạo nhưng vẫn giữ nguyên kiến trúc cũ. Trong đền vẫn lưu giữ một số đồ thờ cúng từ thế kỷ XIII. Trước cửa đền là cây gạo cổ thụ hơn 700 tuổi và có hai thân quấn quýt vào nhau. Do từ thân chính còn mọc thêm thân phụ bên cạnh nên từ xa nhìn lại hai thân cây gạo này rất giống hình ảnh người mẹ đang ôm con. Vì thế, người dân trong vùng tin rằng, những cặp vợ chồng hiếm muộn đường con cái, chỉ cần cũng nhau đến chạm vào phần vỏ nơi gốc hay khấn xin “Bà chúa Mõ” lấy một chút vỏ cây về đem gối đầu giường, sẽ nhanh chóng thụ thai như ý.

Cây gạo cổ thụ hơn 700 năm tuổi trước cửa cụm Di tích.

          Còn một điều kỳ lạ không kém, hàng trăm năm qua, cây gạo liên tục phát triển, cơn ành lá xum xuê tỏa ra tứ phía, nhưng tuyệt nhiên không có một cành lá nào phạm phải một viên ngói nơi đền Mõ gần đó. Nếu có cành nào đó mọc tràn ra phía trên mái đền, tự nhiên sẽ bị khô héo, mục nát.
          Năm 2011, cây gạo đền Mõ được Hội bảo vệ thiên nhiên và môi trường Việt Nam công nhận là Cây di sản Việt Nam (xếp thứ 65 trong 70 cây được tổ chức này vinh danh và là cây gạo duy nhất trong danh sách). Năm 2012, cây gạo này tiếp tục được Trung tâm xác lập kỷ lục Việt Nam công nhận và tôn vinh là cây gạo nhiều năm tuổi nhất Việt Nam.
          Ngày 3 tháng 11 năm Mậu thân 1308, công chúa Quỳnh Trân viên tịch. Thi hài bà được đưa về chùa Tư Phúc ở kinh đô lập tháp an táng. Vua Trần Anh Tông ra sắc chỉ phong bà là Trần Triều A Nương Thiên Thụy Quỳnh Trân công chúa, ban cấp 300 quan tiền đồng cho 5 xã rước sắc phong về xã Nghi Dương lập đền thờ. Từ đó người dân tôn bà làm thánh và dựng đền thờ (đền Mõ) bên cạnh chùa Mõ. Đền Mõ có từ đó và được lưu giữ đến ngày nay.
          Đền được xây dựng cạnh chùa tạo thành một quần thể kiến trúc thống nhất. Đền Mõ nằm trong khuôn viên có diện tích 12.724m2. Từ ngoài vào là con đường nhỏ chạy dài xuyên qua Tam quan gọi là Thần đạo. Theo trục “thần đạo”, thẳng vào là gian tiền đường (nhân dân quen gọi là cung Đệ tam), hai bên là hai toà giải vũ 5 gian, 2 trái. Kiến trúc của đền gồm 3 toà nhà, bố cục theo kiểu “Tiền nhất hậu đinh”, gồm 5 gian tiền đường (cung đệ tam), 5 gian đại bái (cung đệ nhị) và 2 gian hậu cung hình chuôi vồ. Các toà nhà kề sát nhau tạo cho đền dáng vẻ thâm nghiêm và u tịch. Toà tiền đường xây theo kiểu “tường hồi bổ trụ giật tam cấp”. Ba gian trung tâm toà tiền đường lắp hệ thống cửa gỗ lim kiểu “cửa tùng cung khách” chắc chắn và đẹp. Tượng Quỳnh Trân công chúa được đặt trong khám ở gian hậu cung, nơi trang nghiêm của ngôi đền. Hơn 700 năm đã trôi qua, trải bao bước thăng trầm lịch sử nhưng đền – chùa Mõ vẫn được gìn giữ như thủa ban đầu bằng lòng thành kính của người dân nơi đây. Chùa Mõ cũng nhiều lần được trùng tu, tôn tạo. Gần đây nhất ngày 28/11/2020 Giáo hội Phật giáo Hải Phòng cùng tăng ni, phật tử và sư cô Thích Diệu Hiếu – trụ trì chùa Hồng Phúc đã cắt băng khánh thành ngôi Đại hùng bảo điện chùa Mõ sau gần 3 năm xây dựng, tôn tạo với tổng kinh phí khoảng 7,8 tỷ đồng hoàn toàn bằng phương thức xã hội hóa. Ngôi Đại hùng Bảo Điện được xây dựng theo kiến trúc hình chữ Công, với 5 gian tiền đường, 3 gian hậu cung, lợp mái ngói mũi hài, hồi văn đầu trang.
          Hàng năm lễ hội đền chùa Mõ vẫn được tổ chức vào mồng 6 tháng Giêng (lễ Kỳ Phúc) và thường được kéo dài ba ngày với nhiều hoạt động như: lễ rước Thành hoàng làng, hội vật cầu đảo, các trò chơi đánh cờ, chọi gà, tổ tôm điếm. Trong các dịp lễ hội, đền chùa Mõ rất đông dân sở tại và khách thập phương tới thăm quan, cầu cúng.

P.V Thi, Hội Văn nghệ Dân gian HP biên soạn theo ngọc phả đền Mõ và báo ĐT dangcongsan.vn.

Bài viết khác

Tác giả: Hải Phòng Học