Chùa Đót Sơn – Non Đông cổ tự ở Tiên Lãng và Thánh tổ Huyền Quang (Thích Quảng Đông).

Ảnh chùa Đót Sơn mới được xây dựng.

          Ở thôn Kinh Lương thuộc huyện Tân Minh, Phủ Nam Sách xứ Hải Dương xưa (nay thuộc xã Cấp Tiến, huyện Tiên Lãng, Hải Phòng) có một ngôi chùa được coi là ngôi tối cổ – cổ tự Non Đông, tên Chuyết Sơn (hay Đót Sơn). Nơi đây được coi là Hồn thiêng sông núi, là nơi tu hành của Thánh tổ Huyền Quang – Thích Quảng Đông. Ngôi chùa này đã hoàn toàn biến mất trên bản đồ Phật Giáo Việt Nam do sự biến thiên của lịch sử và cuộc kháng chiến chống Pháp trong những năm 1950. Đó là một điều đáng tiếc.
          Bài viết sau đây cho ta hình dung được giá trị lịch sử và văn hóa to lớn của ngôi cổ tự lớn nhất xứ Đông này:
          Theo những nghiên cứu mới nhất, Phật giáo được truyền bá vào Việt Nam bằng đường biển và địa danh mà nhiều nhà nghiên cứu Phật giáo Việt Nam cho rằng là nơi bắt đầu của Phật giáo đó là khu vực ven biển trước khi được thiết lập tại Luy Lâu-Bắc Ninh. Hai địa danh Phật giáo quan trọng của khu vực ven biển vốn thuộc Châu Nam Sách xưa (nay thuộc Hải Phòng), được xác định là Chùa Hang (Đồ Sơn) và Chùa Non Đông xưa hay Chùa Đót Sơn tại xã CấpTiến, Huyện Tiên Lãng, Hải Phòng ngày nay.
          Theo nhà sử học Ngô Đăng Lợi, nguyên Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Hải Phòng, Chùa Non Đông hay Chùa Đót Sơn là ngôi chùa tối cổ của Việt Nam. Chùa nằm tại Phủ Tân Minh, Châu Nam Sách (Hải Dương) xưa nay là xã Cấp Tiến,Huyện Tiên Lãng, Hải Phòng. Văn bia của Chùa hiện còn được lưu giữ và được in trong cuốn Văn Bia Tiên Lãng, ghi nhận Chùa được xây dựng trong những năm 505-543 vào thời kỳ nước ta chịu sự đô hộ của nhà Lương Trung Quốc.
          Tương truyền, vnhiều nhà sư Ấn Độ đến Việt Nam để truyền đạo bằng đường biển và cập bến ở Đồ Sơn. Sau khi làm lễ xong ở Chùa Hang, Đồ Sơn, các thiền sư Ấn Độ đi vào đường mòn, men theo đường biển để đến Chùa Non Đông. Sau khi vào Tam Quan, các vị sư Ấn Độ làm lễ và đi qua hai hành lang để sang dãy nhà ngang và tu tại Chùa. Phật giáo mà các nhà sư Ấn Độ truyền sang Việt Nam vào thời điểm bấy giờ là Pháp Môn Tịnh Độ Thiền tông, một giáo lý Phật giáo mà bấy giờ Việt Nam chưa có.
          Vào thời kỳ nhà Đinh, Phật giáo trở thành quốc đạo và được triều đình công nhận. Hai anh em dòng họ nhà Đinh gồm Đinh Bộ Lan, em trai của Vua Đinh Tiên Hoàng và Đinh Bộ Đông (947-999) em họ của Vua đã tu tại Chùa Non Đông. Đinh Bộ Đông lấy tên pháp Huyền Quang Thích Quảng Đông và là vị sư trụ trì chùa Non Đông trong khi Đinh Bộ Lan lấy tên pháp là Thích Quảng Bình. Hai vị được coi là những vị tổ của trường phái Pháp môn Tịnh độ Thiền tông. Ngài Huyền Quang viên tịch vào ngày 24 tháng giêng năm Kỷ Hợi 999, thọ 51 tuổi. Tài liệu này có được từ Chùa Non Đông Đót Sơn TiênLãng.
          Việt Nam Phật Giáo sử lược có đoạn viết “đến thời Đinh Tiên Hoàng, khi Tiên Hoàng Đế định giai cấp văn võ, thì ngài triệu tất cả tăng sĩ lỗi lạc vào hàng Thái miếu và định phẩm trật cho các Tăng-già. Ngài tặng chức Khuông Việt Thái sư cho Pháp sư Ngô Chân Lưu, Pháp sư Trương Ma Ni làm Tăng lục đạo sĩ và Pháp sư Đặng Huyền Quang làm Sùng Chân uy nghi. Tuy nhiên, Pháp sư Đặng Huyền Quang chính là Pháp sư Huyền Quang của Chùa Non Đông bấy giờ.
          Chùa Non Đông được xây dựng với quy mô lớn với tên gọi Non Đông Tự. Khuôn viên của Chùa rộng 8 mẫu trong đó có 2 mẫu vườn, 1 mẫu ao và năm mẫu ruộng. Ngôi Chùa chính nằm ở Hướng Đông với 100 gian và hoành phi câu đối có ghi dòng chữ Non Đông Tự. Xung quanh chùa chính có hành lang rộng 3 mét. Đằng sau, phía tây có 100 pho tượng La Hán bằng đá. Hai dãy nhà ngang, một quay hướng Bắc và một quay hướng Namtheo kiều răng bừa, phía sau nhà chính mỗi dãy 50 gian. Xung quanh hay dãy nhà ngang đều có hành lang rộng 3 mét. Chùa có một quả chuông nặng 5 tấn.
          Cổng Tam Quan ở Hướng Đông Nam, ngoài cổng bên phải có cây bàng, bên trái có bụi tre. Phía tây có hai cột đá cao 7 mét. Phía tây nam có bệ đá tam cấp trên thờ tượng Phật bằng đá. Lối vào hậu cung có bốn bậc thềm và hai bên hậu cung có năm ông Hộ pháp tượng bằng đá
          Thời điểm bấy giờ, Phật giáo rất thịnh hành và Chùa Non Đông là ngôi chùa lớn nhất trên Vùng Đồng Bằng Bắc bộ vào thời điểm đó và được coi là Trung tâm của Phật giáo Pháp môn tịnh độ Thiền Tông.
          Với sự hiện diện thường xuyên của các vị pháp sư Ấn Độ, vào mùa Kết Hạ, chùa Non Đông đón 300 đến 400 vị Chư Tăng tại nhiều vùng trong cả nước. Cơm được nấu bằng niêu đất và thực phẩm đều tự cấy và trồng từ vườn của nhà Chùa.
          Công đức của Ngài đệ tam Huyền Quang hiện còn lưu lại qua bài thơ của Hòa Thượng Thích Quảng Bình – đệ tử thầy Non Đông và được tìm thấy tại Chùa Non Đông (Đót Sơn):
          Nam mô Đức Tổ Huyền Quang
          Ngài đi soi xét mười Phương xa gần
          Xem ai có đức có nhân
          Xem ai chuyên cần lễ bái thành tâm
          Xem ai tụng niệm Phật thầm
          Xem ai già lão tín tâm lên chùa
          Bầu trời cảnh Phật thanh đô
          Có thuyền Bát Nhã có Hồ Trang xinh
          Xem ai cứu được chúng sinh kẻ bần
          Trẻ thì lắm lộc nhiều xuân
          Già đi tụng niệm để thân nhờ trời
          Đã đi làm phúc đừng cười
          Của đi làm phúc muôn đời thọ khang
          Đã đi làm vãi triền già
          Nào ai sỉ báng thì ta được nhiều
          Anh em phải có lòng yêu
          Thì ta phải học cho nhiều văn kinh
          ……..

          Đến thời kỳ nhà Trần, vua Trần Thái Tông đặt nền móng thống nhất các thiền phái hiện có như Pháp Môn tịnh độ Thiền tông, Vô Ngôn Thông, Thảo Đường, tiến đến sát nhập và hình thành dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử duy nhất đời Trần. Có thể nói chính xác người có công đặt nền móng thiết lập cho thiền phái Trúc Lâm Yên Tử phát triển và truyền thừa từ mô hình tổ chức đến nội dung hành trì, thể hiện bản sắc dân tộc là Trần Thái Tông – vị Vua đầu nhà Trần, nhưng người khai sáng và làm rạng danh thiền phái là vua Trần Nhân Tông – đệ nhất Tổ của thiền phái Trúc Lâm Yên Tử.
          Vị tổ thứ ba của dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử là Đệ tam Huyền Quang (1254-1334). Người tên thật là Lý Đạo Tái, người làngVạn Tải, châu Nam Sách, lộ Lạng Giang (nay là huyện Gia Lương, tỉnh Bắc Giang). Năm 19 tuổi, ông đỗ khoa tam giáo đời Trần, rồi làm quan trong triều đến năm 51tuổi. Tương truyền, ông chính là Tái thế của Đức tổ Huyền Quang của Chùa Non Đông sau 250 năm. Tuổi Ngài bắt đầu xuất gia bằng đúng tuổi thọ của Ngài khi Ngài ở Chùa Non Đông.
          Năm 1330, sư Pháp Loa- tổ thứ hai của dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử đem y bát của Điều ngự giác Hoàng (tức vua Trần Nhân Tông) truyền cho, giao lại cho Huyền Quang trước khi mất. Huyền Quang lên tu ở núi Yên Tử và trở thành tổ thứ ba của phái Trúc Lâm. Ngài viên tịch tại Yên Tử ngày 24 tháng giêng năm 1334.
          Trong cuốn Việt Nam Phật Giáo Sử luận của tác giả Nguyễn Lang, phần ghi chép về thiền sư Huyền Quang, vị tổ thứ ba của Giáo hội Trúc Lâm, không mang tên tác giả và người hiệu khảo. Phần này mang nhan đề là Tổ Gia Thực Lục, theo lời dẫn in ở cuối thì vào khoảng những năm Tuyên Ðức nhà Minh (tức là vào cuối đời Hồ), một bản Tổ Gia Thực Lục đã được thượng thư Hoàng Phúc người Minh chiếm lấy đem về Trung Hoa (hồi Minh thuộc, tướng Trương Phụ thu gom hết tất cả sách vở tại Ðại Việt chở về Kim Lăng, ít sách đã còn có thể giữ lại). Tương truyền, Hoàng Phúc thường nằm mộng thấy Huyền Quang bảo phải gửi phải trả tập sách này về ÐạiViệt, nhưng chưa có dịp thực hiện. Thấy Huyền Quang linh ứng, Hoàng Phúc mới lập chùa thờ, đặt tên chùa là An Nam Thiền Sư Huyền Quang Tự. Ðến khoảng năm Gia Tĩnh nhà Minh, Tô Xuyên Hầu nhà Hậu Lê (là Lê Quang Bí, làm quan đến chức Binh bộ thị lang, đậu hoàng giáp năm 1526) đi sứ sang Trung Hoa gặp được cháu bốn đời của Hoàng Phúc là Hoàng Thừa, mới nhận được tập sách mang về nước. Khi về nước ông đã đưa tập truyện Huyền Quang cho ông Nguyễn Bỉnh Khiêm (Trạng Trình) xem, từ đó sách lại được phổ biến. Lời dẫn nói rằng Hoàng Thừa, cháu của Hoàng Phúc, cũng nằm mộng thấy Huyền Quang nhiều lần nhắn gửi tập sách về Ðại Việt, cho nên khi Tô Xuyên Hầu qua, ông ta đã tìm gặp để gửi sách.
          Đến năm 1491, dưới triều nhà Lê, trải qua hàng trăm năm, chùa Non Đông xuống cấp và được tu sửa lại. Vua Lê Thánh Tông trong lần vãn cảnh chùa, đã tức cảnh bài thơ:
          Đót Sơn tên gọi,
          Sãi vãi dựng xây
          Vẹn tròn tượng Phật,
          Nền phúc căng đầy
          Lưu truyền mãi mãi
          Cùng hưởng sum vầy
          Góp phần công đức
          Khắc đá minh này.

          Bài thơ này được in trong Văn bia của Chùa và Chùa đã được đổi tên thành Chùa Đót Sơn từ thời điểm bấy giờ.
          Trong cuộc kháng chiến chống Pháp giai đoạn 1945-1954, huyện Tiên Lãng đã trở thành nơi đầu sóng ngọn gió và đã kiên cường đánh bại nhiều trận càn của thực dân Pháp và tay sai. Nhưng cũng chính trong thời gian này, theo phong trào tiêu thổ kháng chiến, Chùa Non Đông- Chùa Đót Sơn đã bị phá hoại. Hòa thượng Thích Thanh Dũng trụ trì chùa cũng hy sinh trong trận càn của Pháp năm 1953.
          Địa điểm của Chùa Đót Sơn nay đã trở thành nghĩa trang liệt sỹ xã Cấp Tiến, Huyện Tiên Lãng. Toàn bộ các tượng Phật bằng đá đều bị thất lạc. Theo bà con trong vùng, sau khi hòa bình lập lại, các cột đá ở tam quan đã được sử dụng để xây cống Nẻ, tượng phật bị vứt tại khu vực ao gần cây Bồ Đề nghìn năm tuổi. Đất của Chùa đã bị giao cho nhiều hộ gia đình. Ngôi chùa chỉ còn lại là một am rất nhỏ, vốn là chiếc bếp xưa của Chùa và một cây bồ đề trên nghìn năm tuổi. Những bảo tháp của các vị tổ Chùa Non Đông bị phá và phần cốt bị thất lạc. Hiện nay, phần cốt của ba vị tổ của Chùa Non Đông- Đót Sơn đang được táng trước cửa Chùa nhỏ, nơi thải nước của các hộ dân xung quanh. Chùa hiện không có sư trụ trì và người trông coi ngôi chùa là hai bà vãi, những người có cơ duyên. Bản thân bà Chiêu, một trong hai bà vãi, người từng là y tá đã từng phải đi hành khất khắp nơi để lấy tiền xây được thêm một gian của chiếc am.
          Với một vị sư tổ linh thiêng của Việt Nam (Trung Quốc cũng từng lập chùa để thờ) và với một ngôi chùa có giá trị cao về mặt tâm linh, lịch sử và văn hóa, sự biến mất của ngôi chùa là nỗi xót xa cho những người dân trong vùng. Đã đến lúc giới học giả cần phải có những nghiên cứu và chính quyền địa phương phải thực sự vào cuộc để khôi phục lại một Di sản tâm linh, hồn thiêng sông núi của dân tộc.
          Người chia sẻ bài viết này xin cung cấp thêm quan điểm của sự cần thiết phải nhiên cứu phục hồi di sản văn hóa quý giá này để nó trở thành Di tích Lịch sử-văn hóa cấp Quốc gia:
          “Trong thời gian kháng chiến chống Pháp, cũng như một số di tích khác ở Tiên Lãng, Hải Phòng, chùa Đót Sơn bị tàn phá, mai một. Cho đến nay, những gì được Nhà nước công nhận bằng văn bản cho di sản ở Kinh Lương, mang hồn của văn hóa Câu Lâu – Đò Mè (Domea) là ngày 15-3-2015, Hội Bảo vệ Thiên nhiên và Môi trường Việt Nam đã cấp bằng vinh danh cho cây Bồ Đề ở chùa Đót Sơn là Cây Di sản Việt Nam. Từ năm 2009, sau khi được cấp giấy phép xây dựng, công việc phục dựng chùa Đót Sơn của địa phương đã từng bước được triển khai. Với bao nhiêu công sức của chính quyền và nhân dân xã Cấp Tiến, huyện Tiên Lãng, Hải Phòng, cũng như của các nhà hảo tâm thiện nguyện, đến nay, hình dáng một chùa Đót Sơn mới đã được hình thành.
          Đối với việc khôi phục một di sản văn hóa thì đây là bước khởi đầu, đạt được những kết quả quan trọng. Nhưng không phải như vậy là xong. Còn bao nhiêu việc cần tiếp tục triển khai. Đơn cử như việc tiếp tục sưu tầm nguồn tư liệu (tư liệu khảo cổ, tư liệu viết bằng chữ Hán, chữ Nôm) trong khoảng thời gian hai nghìn năm dựng nước và giữ nước ở vùng quê vốn là địa linh nhân kiệt như Tiên Lãng, Hải Phòng là công việc không đơn giản, đầy phức tạp, khó khăn, nhưng việc làm được thì kết quả sẽ rất lớn, là việc làm “nhất cử lưỡng tiện”. Một là, những nguồn tư liệu này có tính quyết định cho việc vinh danh di sản văn hóa chùa Đót Sơn, cũng như Đống Dõi, Mâu Trúc, Đồng Khoán; Hai là, tập hợp được bộ sưu tập lớn các tư liệu về một vùng miền, làm phong phú nguồn tư liệu quốc gia, góp phần nghiên cứu và phát huy truyền thống văn hóa Việt Nam – một nền văn hóa, văn minh Đại Việt được thế giới xếp vào một trong 34 nền văn minh đầu tiên của nhân loại”.(lời PGS, TS Lê Văn Toan-Giảng viên cao cấp, Trung tâm Nghiên cứu Ấn Độ, học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh)

          Phạm Văn Thi – Hội KHLS Hải Phòng biên soạn và chia sẻ từ nguồn tài liệu:
          – “Lịch sử Non Đông Cổ tự – Đót Sơn tự” của Phạm Thắng- Đại sứ Việt Nam tại Ấn Độ gửi cho chùa Diệu Pháp ở Tiên Lãng.
          – Giá trị văn hóa, lịch sử chùa Đót Sơn, Cấp Tiến, Tiên Lãng, Hải Phòng và một số kiến nghị/PGS, TS Lê Văn Toan-Giảng viên cao cấp, Trung tâm Nghiên cứu Ấn Độ, học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh //Website Học Viện chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. Trung tâm nghiên cứu Ấn Độ. – ngày 23 Tháng Giêng 2021)

 

Bài viết khác

Tác giả: Hải Phòng Học